Vấn đề tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam đã được bàn từ rất lâu nhưng
đa số trong cộng đồng xã hội vẫn chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm
quan trọng của nó. Theo ông Chu Bá Thi, chuyên viên năng lượng của Ngân
hàng Thế giới thì “chi phí xã hội bỏ ra để tiết kiệm một đơn vị điện
năng chỉ bằng 1/3, 1/4 so với chi phí sản xuất ra một đơn vị điện năng
mới” và theo ước tính của ông Đỗ Hữu Hào, chủ tịch Hội
Khoa học và Công nghệ (KH&CN) sử dụng năng lượng điện tiết kiệm và hiệu quả, nếu nâng tỷ lệ
tiết kiệm năng lượng lên đến mức 10% thay vì khoảng 6% như hiện nay thì
mỗi năm, mức năng lượng Việt Nam tiết kiệm được sẽ tương đương công suất
của một nhà máy điện tầm trung.
Những thảo
luận tại Diễn đàn năng lượng Việt Nam: Tiết kiệm năng lượng cho ngành
công nghiệp Việt Nam phát triển bền vững diễn ra vừa qua
cho thấy vai trò quan trọng của tiết kiệm năng lượng, vốn đã được đặt ra
từ thời nêu cao khẩu hiệu “Tiết kiệm là quốc sách”.
Hiện tại, trong bối
cảnh mới của thế giới, khi KH&CN trở thành một trong những yếu tố
quan trọng dẫn dắt sự phát triển, vấn đề tiết kiệm năng lượng (saving
energy) quen thuộc đã chuyển thành sử dụng năng lượng hiệu quả
(efficient energy use). Và Việt Nam không nằm ngoài tác động đó bởi theo
PGS. TS. Trần Đình Thiên, nguyên viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (Viện
Hàn lâm KHXH VN), “cần tính đến hiệu quả năng lượng khi bàn về sản xuất
năng lượng, nếu không các nỗ lực sản xuất đều là vô nghĩa”.
CÔNG NGHỆ VÀ BÀI TOÁN SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NĂNG LƯỢNG
Bài
toán sử dụng hiệu quả năng lượng đang được đặt ra cho Việt Nam hiện nay
đi kèm với nhiều câu hỏi: lĩnh vực nào tiêu dùng nhiều năng lượng nhất?
việc sử dụng năng lượng hiệu quả nên bắt đầu từ đâu? cách thức nào hiệu
quả? Muốn trả lời được bài toán này cần phải xác định được hiện trạng
của việc tiêu dùng điện ở Việt Nam.
Ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng giám đốc
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, “cơ cấu điện
thương phẩm năm 2018 của Việt Nam là lĩnh vực công nghiệp chiếm 55%,
quản lý tiêu dùng (chiếu sáng, sinh hoạt) 32%, thương mại khách sạn 6%,
các thành phần khác dưới 6%. Riêng ngành nông nghiệp có chỉ số điện
thương phẩm thấp là 3% nhưng có sức tăng trưởng nhanh vì năm 2015 mới là
1,6%”.
Từ cơ cấu điện thương phẩm Việt Nam có
thể thấy, hai lĩnh vực tiêu thụ nhiều điện năng bậc nhất là các ngành
công nghiệp và quản lý tiêu dùng. TS. Nguyễn
Xuân Quang (Viện Nhiệt điện lạnh, trường Đại học Bách khoa HN) cho
rằng, có những vấn đề mà các ngành công nghiệp có thể làm tốt khi dựa
vào nền tảng công nghệ, đó là việc quản lý và vận hành các mạng điều
hòa, hệ thống làm lạnh; tận dụng hiệu quả các nguồn nhiệt thừa ở những
nơi có lò nung, lò đốt, lò hơi theo mô hình nhà máy đồng phát; thay đổi
các công nghệ đã trở nên lạc hậu bằng các công nghệ mới; lắp đặt các hệ
thống điện Mặt trời trên mái tại các khu công nghiệp có diện tích nhà
xưởng lớn…
“Điều quan trọng là chúng ta phải hướng đến các giải pháp và
công nghệ tiên tiến, đạt các yêu cầu tiêu tốn ít điện năng, ít phát thải
khí nhà kính nhưng vẫn đảm bảo công suất vận hành”, TS. Nguyễn
Xuân Quang cho biết thêm.
Đây
cũng là quan điểm của TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN. Đề cập đến một thực tế là “30% sản lượng điện hằng năm cho
chiếu sáng trong các lĩnh vực công nghiệp, dân dụng, công trình công
cộng”, ông phân tích “việc tiết kiệm được một nửa năng lượng dành cho
chiếu sáng sẽ tương đương với sản lượng điện của một nhà máy điện hạt
nhân công suất cỡ 4.000MW. Xét về hiệu quả công nghệ thì công nghệ đèn
LED ít hơn bóng đèn dây tóc cổ điển 80% đến 90% năng lượng, ít hơn công
nghệ đèn compact 30% đến 40%. Do đó, nếu các công nghệ chiếu sáng của
chúng ta dùng LED thì khả năng tiết kiệm rất lớn mà vẫn đạt được yêu cầu
về chiếu sáng”.
Công nghệ trong các ngành công
nghiệp là một vấn đề đã được Bộ KH&CN đặt ra từ nhiều năm và được
đưa vào Luật Chuyển giao công nghệ 2017. TS. Nguyễn Quân cho rằng, trên
thực tế mối quan tâm với các hợp đồng chuyển giao công nghệ vẫn còn chưa
cao, dù thông qua việc nắm bắt được các công nghệ được chuyển giao, “có
thể nắm bắt được các công nghệ của doanh nghiệp nước ngoài, tiến tới
học hỏi và làm chủ công nghệ, đưa các dự án đầu tư hoạt động với hiệu
quả cao nhất”. Đây cũng chính là yếu tố để Việt Nam có được những công
nghệ mới, đảm bảo được các tiêu chí sử dụng hiệu quả năng lượng trong
sản xuất.
Để giải được bài toán công nghệ, bản
thân các doanh nghiệp cũng phải thực sự coi đó là vấn đề sát sườn nhưng
theo ông Trịnh Quốc Vũ, Phó vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát
triển bền vững (Bộ Công thương), “các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm
về lợi ích công nghệ mang lại, đặc biệt với những lĩnh vực ngành nghề
mà chi phí năng lượng trên giá thành sản phẩm thấp”.
Vậy đây có phải là
nguyên nhân khiến ngay cả giới khoa học cũng ít quan tâm đến các giải
pháp liên quan đến tiết kiệm năng lượng, TS. Nguyễn Quân đặt câu hỏi khi
liên hệ với một thực tế: nhìn chung số lượng các đề tài về lĩnh vực này
còn ở mức khiêm tốn, không chỉ ở các chương trình do Bộ KH&CN quản
lý mà ngay cả chương trình của các bộ ngành khác cũng vậy. “Tôi không
hiểu là các nhà khoa học không quan tâm hay họ gặp phải vướng mắc lớn về
địa chỉ ứng dụng, đầu ra cho các đề tài nghiên cứu của mình…”, ông Nguyễn Quân băn
khoăn về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng ít đề tài nghiên cứu về tiết
kiệm năng lượng có thể áp dụng trên thực tế.
NHỮNG YẾU TỐ THÚC ĐẨY VIỆC ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ MỚI
Lý
giải việc các doanh nghiệp chưa thiết tha tìm kiếm công nghệ sản xuất
sử dụng tiết kiệm năng lượng, với góc nhìn của chuyên gia kinh tế vĩ mô,
PGS. TS. Trần Đình Thiên chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản là
“méo mó” về giá điện.
Với số liệu dẫn ra từ
EVN, ông đã chỉ ra sự chênh lệch về giá điện của Việt Nam so với thế
giới: giá bình quân của thế giới đều là 14 cent/kwh còn Việt Nam là 7
cent/kwh, nghĩa là doanh nghiệp không có nhiều động lực áp dụng công
nghệ mới để tiết kiệm điện năng và giảm chi phí sản xuất.
“Nếu giá điện
‘tốt’, ở đây nghĩa là ở mức không quá thấp so với thế giới, thì người ta
mới quan tâm nhiều đến sản xuất để giảm lượng điện tiêu thụ nhưng ngược
lại, giá điện không ‘tốt’ lại dẫn đến khuyến khích tiêu dùng năng
lượng, không cần áp dụng đến công nghệ hiện đại lắm vì tính ra chi phí
điện năng tiêu thụ vẫn ‘chịu’ được”, ông Trần Đình Thiên nói.
Nhìn
lại quá trình phát triển của khối các ngành công nghiệp Việt Nam, PGS.
TS. Trần Đình Thiên đưa ra nhận xét: “Về căn bản, trong 30 năm thu hút
các doanh nghiệp FDI, Việt Nam đã thực thi một chiến lược thu hút đầu tư
với nhiều chính sách ưu đãi, trong đó chính sách năng lượng giá rẻ.
Việc duy trì chính sách năng lượng như vậy vô hình trung khuyến khích
các doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ cũ, không chỉ không tiết kiệm
năng lượng mà còn gây ô nhiễm môi trường”.
Với việc nêu nguyên nhân sâu
xa của vấn đề, ông Trần Đình Thiên đề nghị cần có một thay đổi rất cơ bản trong cách
nhìn nhận về các loại giá đầu vào cho thị trường sản xuất, trong đó giá
đầu vào năng lượng là quan trọng bậc nhất. “Cách tiếp cận của an ninh
năng lượng, của tiết kiệm năng lượng phải bắt đầu từ cơ chế thị trường,
nếu không thể chỉ trông chờ vào cách làm cũ. Nếu những đổi mới của chúng
ta không liên quan đến giá điện thì mọi nỗ lực đều kém hiệu quả và mục
tiêu đạt được rất khó khăn”, ông Trần Đình Thiên nêu nhận định của mình.
Để sử dụng hiệu quả
năng lượng, bên cạnh việc áp dụng các công nghệ mới trong sản xuất năng lượng
và tiêu dùng năng lượng, cần quan tâm đến dịch chuyển cơ cấu năng lượng sang
những loại hình năng lượng mới như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và
điện hạt nhân, đồng thời áp dụng một cách thức điều hành thông minh từ những
công nghệ nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (PGS. TS. Trần Đình Thiên).
|
Ông
Chu Bá Thi, một chuyên gia về năng lượng của Worldbank, cùng chung quan
điểm của PGS. TS. Trần Đình Thiên về việc cần phải có mức giá năng lượng
theo cơ chế thị trường mới có thể giúp tăng nhu cầu đầu tư vào công
nghệ mới để tiết kiệm năng lượng.
Thông qua quá trình khảo sát đánh giá
thực trạng và đề ra giải pháp về chính sách tiết kiệm năng lượng giữa
Worldbank và Bộ Công thương, ông Chu Bá Thi nhận thấy bên cạnh chính sách giá điện
giá thấp, “chúng ta có nhiều bất cập và rào cản trong cơ chế tài chính
và ngay cả nhận thức của doanh nghiệp”. Ví dụ, Worldbank đang triển khai
Dự án tiết kiệm năng lượng cho ngành công nghiệp Việt Nam (VEEIE) với
khoản tín dụng trị giá 100 triệu USD nhưng quá trình cho vay cũng gặp
nhiều khó khăn và chưa có dự án nào ở quy mô tầm trung được thực hiện,
dù các đề xuất mà ông nhận được đều khả thi về tài chính.
“Do chi phí
đầu tư ban đầu cho các dự án đều ở mức cao nên nhiều ngân hàng coi rủi
ro trong lĩnh vực này lớn. Hầu hết các đề xuất vay đều dựa vào tài sản
đảm bảo nhưng xếp hạng tài sản của nhiều doanh nghiệp ngành thép tương
đối thấp trong khi năng lực đánh giá, thẩm định công nghệ trong các dự
án cho vay của các ngân hàng rất yếu”, ông Chu Bá Thi lý giải một phần nguyên nhân
khiến không nhiều doanh nghiệp triển khai các giải pháp tiết kiệm năng
lượng hiệu quả.
Một trong những mục tiêu mà
Worldbank và Bộ Công thương đang hướng tới là xây dựng một mô hình thị
trường dịch vụ năng lượng để có thể cung cấp các giải pháp năng lượng
toàn diện tại Việt Nam, dựa trên cơ sở các mô hình đang áp dụng trên thế
giới.
NHỮNG TÍN HIỆU ĐƠN LẺ
Dù
câu chuyện tiết kiệm năng lượng hay sử dụng năng lượng hiệu quả chưa
được triển khai một cách thấu đáo thì vẫn có một số tín hiệu tích cực
xuất hiện một cách đơn lẻ. Đó là nỗ lực của ngành điện lực khi chủ động
nâng cao năng lực, “đưa Việt Nam đứng thứ tư khu vực Đông Nam Á về tiếp
cận điện năng, đứng đầu khu vực về truyền tải điện”, theo Phó Tổng giám
đốc EVN Võ Quang Lâm; công ty Thép Hòa Phát Hải Dương (Tập đoàn Hòa
Phát) tận dụng hơi quá nhiệt từ công đoạn luyện thép và cán thép cho nấu
ăn làm giảm chi phí sử dụng khí gas, sử dụng công nghệ tách ẩm trước
khi đưa không khí vào lò cao; Sở KH&CN Hà Nội triển khai dự án sản
xuất thử nghiệm bộ mô đun đèn LED với chất lỏng tản nhiệt chứa vật liệu
nano ống nano (CNTs) do TS. Bùi Hùng Thắng (Viện Khoa học vật liệu, Viện
Hàn lâm KH&CN Việt Nam) làm chủ nhiệm – thiết bị có thể giúp Hà Nội
triển khai công nghệ đèn LED mà không phải bỏ đi toàn bộ hệ thống chiếu
sáng theo công nghệ cũ…
Tuy nhiên, cần sự thay
đổi nhận thức của mọi người để có thể triển khai tốt các công nghệ mới,
dù ở cấp độ dân sinh, doanh nghiệp hay tổ chức. “Chúng tôi phải mất tới
10 năm để thuyết phục người tiêu dùng chuyển đổi công nghệ từ bóng đèn
sợi đốt sang bóng đèn compact”, anh Dương Đức Duy, Trung tâm R&D của
công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông, khi đề cập đến những nỗ lực làm
ra công nghệ mới phục vụ chiếu sáng trong nông nghiệp. Dẫu vậy, những
chuyển biến mới đã xuất hiện, “may mắn là mọi chuyện đã tốt hơn, như
triển khai công nghệ đèn LED chiếu sáng hai màu xanh đỏ có khả năng kích
thích quá trình sinh trưởng của cây trồng hiệu quả hơn và cũng tốn ít
điện năng hơn so với đèn compact, chỉ mất từ 3 đến 5 năm để được người
dân chấp nhận, nhanh hơn rất nhiều”, anh Dương Đức Duy nói thêm./.
Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030 đã đề ra mục tiêu: đạt mức tiết kiệm năng lượng từ 5 đến 7% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc và 8 đến 10% giai đoạn 2019-2030. Để đạt được mục tiêu này, trong giai đoạn đến 2025, cần giảm mức tiêu hao năng lượng ở các ngành công nghiệp so với giai đoạn 2015-2018: thép 3 đến 10%, hóa chất trên 7%, nhựa 18 đến 22,46%, xi măng 7,5%, dệt may trên 5%..., 70% khu công nghiệp áp dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng, 100% doanh nghiệp vận tải trọng điểm có chương trình, giải pháp kỹ thuật theo hướng tiết kiệm năng lượng; giai đoạn đến 2030: cần giảm mức tiêu hao năng lượng so với 2015-2018: thép từ 5 đến 16%, hóa chất trên 10%, nhựa 21,55 đến 24,81%, xi măng trên 10,89%, dệt may trên 6,8%, 90% khu công nghệp áp dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng, giảm 5% lượng tiêu thụ, xăng dầu trong giao thông.
|
Thanh Nhàn (khoahocphattrien.vn)