Qua mỗi kỳ Đại hội, trên cơ sở tổng kết, đánh giá việc thực hiện công tác xây dựng Đảng, gắn với điều kiện thực tiễn mới, Đảng ta luôn có sự bổ sung, phát triển tư duy lý luận xây dựng Đảng về đạo đức, đặc biệt trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đó là sự bổ sung, hoàn thiện với nhiều quan điểm, giải pháp mới nhằm xây dựng Đảng về đạo đức trong điều kiện mới, trở thành điểm nhấn quan trọng định hướng công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, “là văn minh”.
Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng trong xây dựng Đảng về đạo đức được thể hiện cụ thể ở các nội dung sau:
Một là, đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, coi đó là cái “gốc” làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng hết sức coi trọng. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng luôn dành sự quan tâm rất lớn đến giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đến xây dựng Đảng “là đạo đức”, “là văn minh”. Ngay từ khi tuyên truyền, vận động thành lập Đảng, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đề cập vấn đề tư cách đạo đức của một người cách mạng, xác định cụ thể những chuẩn mực của người cách mạng trong từng mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Sau khi giành được chính quyền, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở các cấp ủy đảng, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, xác định vị thế của những công bộc của dân, phục vụ nhân dân, không phải là những “quan cách mạng”. Đặc biệt, năm 1960, tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Di sản cuối cùng của Người để lại là Di chúc, trong đó vấn đề đạo đức cách mạng được nhắc đến như một điểm nhấn trong công tác xây dựng Đảng.
Năm 1976, sau khi đất nước giành độc lập hoàn toàn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tổng kết công tác xây dựng Đảng, rút ra phương châm xây dựng Đảng là phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều đó được thể hiện trên ba nội dung lớn: 1) Tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng. 2) Phát huy dân chủ trong Đảng, tự phê bình và phê bình thường xuyên, nghiêm túc. 3) Chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân và những tiêu cực, thoái hóa trong Đảng.
Đến năm 1999, trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng bộc lộ một số yếu kém, như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn biến ngày càng nghiêm trọng hơn, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999, “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Bước vào nhiệm kỳ Đại hội XI, Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 của khóa XI đã ban hành các nghị quyết, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong đó có đề cập đến vấn đề xây dựng đạo đức trong Đảng. Như vậy, chúng ta nhận thấy vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng đề cập đến nhưng chỉ lồng ghép, hàm chứa trong các mặt nội dung xây dựng Đảng, chưa tách thành nội dung riêng biệt.
Đến nhiệm kỳ Đại hội XII, cụm từ “Xây dựng Đảng về đạo đức” chính thức được đưa vào Văn kiện và khẳng định mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”[1]. Đây là lần đầu tiên, Đảng đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi, không có bảo đảm đạo đức thì mọi nỗ lực xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức không thể thành công, không thể phát huy được tác dụng, ảnh hưởng của nó trong Đảng và trong xã hội.
Trong suốt nhiệm kỳ Đại hội XII cho thấy, với sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương, sự quyết tâm của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp, công tác xây dựng Đảng về đạo đức đã có những chuyển biến tích cực, nhưng bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng về đạo đức vẫn còn những hạn chế, yếu kém, trong đó nổi lên nhất chính là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, có mặt, có lúc, có bộ phận còn diễn biến phức tạp, tinh vi hơn. Đây là một trong những thách thức lớn đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân, trực tiếp đe dọa tới vai trò cầm quyền của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Đến Đại hội XIII, công tác xây dựng Đảng về đạo đức tiếp tục được khẳng định là một trong 5 nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhưng điểm nhấn đặc biệt quan trọng ở Đại hội XIII là cùng với việc làm rõ một số nội dung cụ thể trong xây dựng Đảng về đạo đức thì phải “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”[2], coi đây là “gốc”, là nền tảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt, một mục tiêu mà Đảng ta cần phấn đấu, làm cho Đảng luôn xứng đáng với mong mỏi của toàn dân, thực sự tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”. So với Đại hội XII, công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cập thành một mục riêng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Báo cáo chính trị. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Đại hội XIII cũng đề cập rất cụ thể, sâu sắc nội dung này.
Như vậy, so với các nhiệm kỳ trước, tư duy lý luận xây dựng Đảng về đạo đức của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII đã có bước phát triển mới khi nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức. Điều đó đã thể hiện ý chí của Đảng là đề cao, coi trọng đạo đức, đưa việc xây dựng Đảng về đạo đức lên một vị trí mới.
Hai là, mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức được thể hiện rõ ràng hơn gắn với điều kiện thực tiễn mới.
Xây dựng Đảng về đạo đức là phương châm, nhiệm vụ và cũng là giải pháp hiệu quả trong khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có nhiều nguyên nhân, song, trong đó có vấn đề chưa quan tâm đúng mức đến xây dựng Đảng về đạo đức trong công cuộc đổi mới. Trước đây, nội dung xây dựng Đảng về đạo đức chỉ được lồng ghép trong các mặt nội dung của công tác xây dựng Đảng. Do vậy, mục tiêu chưa được xác định cụ thể.
Trong Văn kiện Đại hội XII, xây dựng Đảng về đạo đức được xác định là một nội dung riêng trong các mặt công tác xây dựng Đảng, tuy nhiên chủ trương xây dựng Đảng về đạo đức vẫn đặt trong mục tiêu tổng thể xây dựng Đảng với nội dung tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh vể chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Như vậy, mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức cũng chưa được xác định rõ mà chỉ tập trung đến việc nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng.
Đến Đại hội XIII, Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế tồn tại trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức với cái nhìn sâu sắc hơn gắn liền với điều kiện lịch sử trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, Đảng đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức chính là nhằm “Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”[3], đồng thời phải góp phần đưa Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự “là đạo đức”, “là văn minh”. Đây không chỉ là một tư duy mới trong xây dựng Đảng về đạo đức mà còn thể hiện ý chí của Đảng ta quyết tâm đấu tranh với một hiện tượng đã trở nên khá phổ biến, được coi sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Ba là, hoàn thiện, bổ sung nhiều nội dung, giải pháp mới, toàn diện, cụ thể hơn trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Xây dựng Đảng về đạo đức xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhằm giải quyết vấn đề từ thực tiễn. Sự thay đổi về môi trường xã hội tất yếu dẫn đến sự lạc hậu, kém hiệu quả của một số nội dung, phương pháp của công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Nói cách khác, thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xây dựng một cách đồng bộ những nội dung, phương pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Kế thừa quan điểm Đại hội XII, xây dựng Đảng về đạo đức tiếp tục có những bổ sung, hoàn thiện, với nhiều nội dung, giải pháp mới. Đây là một điểm nhấn trong sự phát triển tư duy lý luận xây dựng Đảng về đạo đức trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Nói đến Đảng là nói đến tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Xây dựng Đảng về đạo đức phải tập trung vào xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và từng người. Đồng thời, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, xây dựng Đảng về đạo đức còn là sự kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Nếu Đại hội XII của Đảng chỉ đề cập đến 3 giải pháp chính để xây dựng Đảng về đạo đức: 1) Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; 2) Đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống; 3) Nêu gương, thì trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập và nhấn mạnh hầu hết tất cả các mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức, với 6 giải pháp trọng tâm là: 1) Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; 2) Thực hiện nghiêm quy định nêu gương; 3) Bổ sung, hoàn thiện các giá trị và xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng; 4) Giáo dục đạo đức cách mạng; 5) Đấu tranh chống quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức; 6) Khen thưởng, kỷ luật cán bộ, đảng viên. So với Văn kiện Đại hội XII, đây là sự bổ sung, hoàn thiện nội dung toàn diện, sâu sắc hơn, cụ thể:
Về nội dung tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, nếu Đại hội XII nhấn mạnh đến việc yêu cầu cán bộ, đảng viên phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, thì Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, nhấn mạnh tầm quan trọng và đặt lên hàng đầu vấn đề “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên”[4]. Bởi, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho từng cán bộ, đảng viên của Đảng. Đạo đức của Đảng được xây dựng trên đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, sự tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên là vô cùng quan trọng.
Đối với vấn đề nêu gương, cùng với việc đề cao thực hiện nghiêm quy định nêu gương, Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ hơn đối tượng của quy định nêu gương với tinh thẩn “chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”[5] và nhấn mạnh “trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”[6]. Theo đó, đối tượng nêu gương trước hết không chỉ là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu mà còn là người có chức vụ trong các cơ quan, đơn vị; gắn kết chức vụ với thực hiện nêu gương, cùng chức vụ thì mức độ gương mẫu phải tương đương nhau, mức độ gương mẫu của cấp trên phải hơn cấp dưới. Đặc biệt, Đại hội XIII còn nhấn mạnh đến vấn đề tự giác và mục đích của việc nêu gương của đảng viên: “Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”.[7] Bởi, trách nhiệm nêu gương có vai trò vô cùng quan trọng trong mọi mặt công tác của Đảng. Đảng viên là những người ưu tú nhất trong nhân dân, vì vậy, họ là người có sức ảnh hưởng rất lớn đến cơ quan, tổ chức và xã hội. Ở bất cứ đâu, thời kỳ nào, cán bộ, đảng viên tự giác nêu gương, thực hành đạo đức, nói đi đôi với làm đều có ảnh hưởng sâu sắc trong Đảng và được cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập, làm theo. Hiện nay, mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến các chuẩn mực, hành vi đạo đức; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống, chạy theo lối sống vật chất tầm thường, say mê hưởng thụ, xa rời đạo đức cách mạng. Trước tình trạng đó, việc đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị về xây dựng đạo đức lại càng có tầm quan trọng đặc biệt.
Về cơ chế kiểm tra quy định nêu gương, Văn kiện Đại hội XIII đã có sự thay đổi, bổ sung thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với vấn đề kiểm tra, giám sát khi nhấn mạnh cần: “Coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện các quy định nêu gương”[8]. Như vậy, so với Đại hội XII, Đảng đã lược bỏ thuật ngữ “kiểm soát” của tổ chức đảng, “phản biện xã hội” của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện nêu gương; bổ sung thêm chủ thể giám sát thực hiện nêu gương là cơ quan dân cử và báo chí để nhấn mạnh cả hệ thống chính trị sẽ trở thành chủ thể trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nêu gương.
Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng đã đưa nội dung “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng”[9] là một giải pháp mới để xây dựng Đảng về đạo đức. Các giá trị đạo đức và chuẩn mực đạo đức là tồn tại khách quan và luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của xã hội. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, quá trình hội nhập quốc tế, nhiều giá trị đạo đức xã hội đã có những thay đổi đáng kể. Vì vậy, Đảng ta đã rất sáng suốt, khi yêu cầu cần phải chủ động để nhận thức, xây dựng những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới. Điều này sẽ tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên “tự soi”, “tự sửa” hằng ngày, nhận biết được tình trạng học tập, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng của chính bản thân thông qua nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng, từ đó có phương hướng, giải pháp khắc phục cái chưa được, phát huy cái đạt được trong thực hành đạo đức cách mạng. Đây là một điểm mới thể hiện sự phát triển tư duy lý luận xây dựng Đảng về đạo đức của Đảng, đưa lý luận xây dựng, chỉnh đốn Đảng phát triển lên một bước mới.
Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cũng là một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng so với các kỳ Đại hội trước đó. Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ. Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình”[10]. Cùng với đó, kỷ luật cán bộ, đảng viên là một trong những điểm mới trong xây dựng Đảng về đạo đức trong Văn kiện Đại hội XIII khi nhấn mạnh: “Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương sáng về đạo đức, lối sống” và “xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống”[11].
Bốn là, nhấn mạnh mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ.
Xây dựng Đảng về đạo đức thể hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Trong Văn kiện Đại hội XIII, khi đề cập phương hướng trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta xác định: “Trong những năm tới, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[12]. Đây là 5 mặt của công tác xây dựng Đảng, có quan hệ mật thiết, là tiền đề của nhau. Xây dựng Đảng về chính trị có tính chất bao trùm, chi phối xây dựng Đảng về tư tưởng, đạo đức và tổ chức. Xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức và đạo đức đều xuất phát từ xây dựng Đảng về chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính trị. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức lại là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch; là cơ sở để xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Xây dựng Đảng về đạo đức góp phần hình thành văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử trong Đảng. Nền tảng đạo đức giúp cho chính trị, nhất là quyền lực chính trị không bị tha hóa, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay. Nền tảng đạo đức cũng giúp người cán bộ, đảng viên dễ dàng tiếp nhận tư tưởng chính trị đúng đắn, hình thành niềm tin khoa học và tình cảm cách mạng. Đồng thời, xây dựng đảng về đạo đức giúp gắn kết các thành viên trong tổ chức, giữ cho tổ chức sự thống nhất ý chí và hành động trong sạch, vững mạnh. Qua thực hành đạo đức, thực hành dân chủ thực hành tự phê bình và phê bình, thường xuyên tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân về xây dựng Đảng, thực hiện sự giám sát kiểm tra của nhân dân đối với các tổ chức vững mạnh toàn diện.
Như vậy, nội dung xây dựng Đảng về đạo đức được xác định tại Đại hội XIII vừa mang tính toàn diện, bao quát, vừa có trọng tâm, trọng điểm, có nhiều điểm mới, điểm bổ sung thể hiện sự phát triển tư duy lý luận xây dựng Đảng về đạo đức của Đảng. Những điểm mới này đã làm sáng tỏ hơn về công tác xây dựng Đảng, góp phần định hướng cho cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, cán bộ, đảng viên nghiên cứu, quán triệt, không ngừng học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng. Xây dựng một Đảng chân chính sáng ngời về đạo đức cách mạng để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” đáp ứng sự kỳ vọng, mong mỏi của nhân dân./.
Đại úy, ThS. Nguyễn Thị Ly
Thiếu tá CN. Nguyễn Hồng Tư
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016, tr.202.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.183
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.236.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.183.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.183
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.183 -184.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.183.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.184
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.184.