TẬP TRUNG DÂN CHỦ LÀ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG
Sinh
thời, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học luôn nhấn mạnh vai
trò, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là biểu hiện
của sự lãnh đạo tập thể, bảo đảm chủ trương, đường lối của Đảng luôn
được bàn bạc, thảo luận và quyết định theo đa số; đồng thời, tập trung
được kinh nghiệm và ý kiến của đội ngũ đảng viên, hạn chế được biểu hiện
chủ quan, duy ý chí. Kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ giúp nâng
cao tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ đảng viên, để các quyết định của
Đảng trở thành sản phẩm trí tuệ và thể hiện ý chí thống nhất của toàn
Đảng. V.I.Lênin từng khẳng định: “Các đảng gia nhập Quốc tế cộng sản
phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ..., đảng
cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu đảng được tổ chức
một cách tập trung nhất, nếu trong đảng có một kỷ luật sắt, gần giống
như kỷ luật quân sự, và nếu Trung ương đảng là một cơ quan có uy tín
mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi, được toàn thể đảng viên tin cậy”(1).
V.I. Lê-nin nhấn mạnh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức đúng đắn
của đảng vô sản kiểu mới, là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng
chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác. Theo đó, “chế
độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu
chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(2); “Không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khuôn máy móc”(3).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của
nguyên tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên
tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ
luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng
đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(4); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung.
Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội
và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải
phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân
chủ vừa tập trung”(5); “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn
năng để giải quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với
tập trung, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn
mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi
với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”(7).
Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm
cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về tư tưởng và hành động,
để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(8).
Trong
quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng 93 năm qua, Đảng ta luôn kiên
trì nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản
của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng,
bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ
trong Đảng. Kiên trì thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ
bản chất của Đảng, từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng và từ kinh
nghiệm của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta nhiều lần
khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(9).
Điều
lệ Đảng quy định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”(10). Nguyên tắc tập
trung dân chủ bao gồm những nội dung cơ bản sau: 1- Cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách; 2- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu
toàn quốc; cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên; giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp
hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ; 3- Cấp ủy
các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội
cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình; 4- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết
của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá
nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội
đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương; 5- Nghị quyết của các cơ
quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số
thành viên trong cơ quan đó tán thành; trước khi biểu quyết, mỗi thành
viên được phát biểu ý kiến của mình; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại
biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; cấp ủy có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số; 6- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm
vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên(11).
Quán
triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là yêu cầu đặc
biệt quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo đảm cho Đảng
luôn là một tổ chức thống nhất, đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, có sức
chiến đấu cao. Việc xem nhẹ, thực hiện không đúng, không nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ sẽ làm tổn hại đến uy tín, sức mạnh của Đảng; là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến tệ quan liêu, độc đoán, coi thường tập thể và
hiện tượng phân tán, cục bộ, vô kỷ luật.
NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ THỜI GIAN QUA
Công
tác cán bộ là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
của cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan trong hệ thống chính trị theo
chủ trương, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng về các nội
dung: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, xây dựng tiêu chuẩn cán
bộ, tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; luân chuyển, điều động, bố trí, sử dụng,
miễn nhiệm, cho từ chức đối với cán bộ; thực hiện chính sách, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ; kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để xây
dựng đội ngũ cán bộ có số lượng và cơ cấu hợp lý, chất lượng không ngừng
được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Trong các giai
đoạn lịch sử, do yêu cầu lịch sử và nhiệm vụ chính trị của Đảng khác
nhau, nên công tác cán bộ cũng mang nội dung, đặc điểm khác nhau.
Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương gặp
mặt cán bộ cấp cao được phân công, bổ nhiệm, luân chuyển trong năm 2022
(tháng 2/2023). (Ảnh: TTXVN)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú
có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của
hệ thống chính trị. Trong công tác cán bộ, phải “bảo đảm thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định, đồng thời phát
huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công
tác cán bộ và quản lý cán bộ”(12). Việc quán triệt, thực hiện
nghiêm nguyên tắc này là nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng, đồng thời phát huy trách nhiệm của thành viên tập thể lãnh
đạo, người đứng đầu các cấp; bảo đảm công tác cán bộ được thực hiện dân
chủ, khách quan, công tâm, minh bạch, lựa chọn đúng người có đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín theo tiêu chuẩn, điều kiện quy định.
Trong
thời kỳ đổi mới, quá trình không ngừng hoàn thiện thể chế gắn với thành
tựu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và những yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ mới đã tạo điều kiện thuận lợi để triển khai hiệu
quả công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Bám sát các nguyên tắc
được xác định trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng và xuất phát từ tình hình
thực tế, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập
trung chỉ đạo nghiên cứu, ban hành nhiều nghị quyết, quy định, quy chế
nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Thẩm
quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của tập thể và thành viên lãnh
đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong công tác cán bộ được quy
định ngày càng rõ hơn(13). Hệ thống văn bản về công tác cán bộ được xây dựng, rà soát, bổ sung, từng bước hoàn thiện(14), bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của Đảng; đồng thời, tiếp tục đề cao trách nhiệm, phát huy dân chủ trong công tác cán bộ.
Quán
triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định, quy chế của Đảng,
công tác cán bộ trong những năm qua tiếp tục có nhiều đổi mới, ngày càng
khoa học, chặt chẽ, đi vào nền nếp. Quy trình công tác cán bộ được
triển khai nghiêm túc, đúng quy định, bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân
chủ; đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh
đạo và của người đứng đầu. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt; trách nhiệm của cấp ủy, sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, được đề
cao; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; “các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ
Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp...;
các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng
dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực
hiện nghiêm túc”(15).
Nhờ
kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, các khâu trong công tác cán bộ
được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, công khai, minh bạch; thực hiện thí
điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý thông qua thi
tuyển, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn.
Đa số cán bộ được bầu và bổ nhiệm đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy
định, phát huy tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, được cán bộ, đảng
viên và nhân dân tín nhiệm. Việc tuyển chọn, quản lý, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện
chính sách cán bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng bàn bạc, thảo luận dân
chủ và quyết định theo đa số. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý được tiến hành định kỳ, dần đi vào nền nếp, góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta cũng nghiêm túc chỉ rõ:
“Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”(16);
“Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong tổ chức và hoạt
động của cấp ủy, tổ chức đảng có nội dung chưa được quy định cụ thể phù
hợp với tình hình thực tế, nhất là về mối quan hệ, trách nhiệm giữa tập
thể, cá nhân và người đứng đầu, nên khó xác định trách nhiệm của cá nhân
khi xảy ra sai phạm”(17). Nhận thức, trách nhiệm của một số
cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu về công tác cán bộ trong tình
hình mới chưa đầy đủ, sâu sắc, toàn diện; việc quản lý cán bộ còn bộc lộ
nhiều sơ hở, bị lợi dụng, tính đảng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý còn yếu kém. Đánh giá cán bộ trước khi bổ nhiệm ở nhiều nơi còn
hạn chế, chưa phản ánh thực chất; một số trường hợp mới được bổ nhiệm đã
bộc lộ yếu kém, một số có vi phạm khuyết điểm, thậm chí bị xử lý kỷ
luật, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược. Việc bổ nhiệm, giới thiệu
cán bộ ứng cử có nơi còn biểu hiện cục bộ, khép kín; đúng quy trình,
nhưng chưa trúng người, đúng việc. Vẫn còn hiện tượng lợi dụng tập thể
để thực hiện ý chí của người đứng đầu; hiện tượng nể nang, né tránh,
ngại va chạm, đoàn kết một chiều trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng
cử còn tồn tại. Một số cấp ủy, tổ chức đảng để xảy ra những sai phạm
khuyết điểm kéo dài, mất đoàn kết nội bộ, gây bức xúc trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Trong các nhiệm kỳ vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và cấp ủy các cấp đã kiểm tra, xử lý kỷ luật nhiều cán bộ, trong đó một
số tập thể, cán bộ chủ chốt đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy
chế làm việc của cấp ủy.
Các đại biểu biểu quyết thông qua
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn),
nhiệm kỳ 2020-2025. (Ảnh: TTXVN)
TIẾP TỤC CỤ THỂ HÓA, HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THỰC THI NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA TÌNH HÌNH MỚI
Đại
hội XIII của Đảng đã xác định nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường
sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tổ
chức đảng các cấp trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán
bộ. Thời gian tới, để tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực thi nguyên tắc
tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng, đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Quán
triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo, các quy định, quy chế của Đảng về công
tác cán bộ trong tình hình mới; thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Những vấn đề về đường lối, chủ
trương, chính sách, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử
dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ, điều
động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phải do cấp
ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo có thẩm quyền thảo luận dân chủ,
quyết định theo đa số. Trường hợp ý kiến của người đứng đầu và ý kiến
của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị có sự khác
nhau thì phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm đề xuất và
tổ chức thực hiện quyết định của tập thể về công tác cán bộ trong phạm
vi được phân công phụ trách. Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghị
quyết, quyết định của cấp ủy, tổ chức đảng; cấp ủy cấp dưới phải chấp
hành quyết định của cấp ủy cấp trên trong công tác cán bộ.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản của Đảng về công tác cán bộ. Xây
dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công
tác cán bộ và quản lý cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện quy định, quy chế về
tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ; lấy phiếu tín
nhiệm định kỳ hoặc đột xuất; cụ thể hóa cơ chế nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng; bổ sung các quy định có liên quan, nâng cao tính cạnh
tranh, công khai, minh bạch trong tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, cụ thể là
việc ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động
và cam kết thực hiện; rà soát, hoàn thiện, đổi mới công tác bầu cử trong
Đảng, thực hiện bầu cử có số dư; mở rộng thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng. Thực hiện một số chủ trương thí điểm,
như người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực
hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới
thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới
thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy
hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình... Trên cơ sở các quy định, quy chế của
Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng cần cụ thể hóa, ban hành các quy
chế, quy định về công tác cán bộ, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, phát
huy dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ.
Thứ ba, thường xuyên rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng. Xây
dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp ủy có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của tổ
chức đảng, phát huy tốt trách nhiệm cá nhân của cấp ủy viên, nhất là
người đứng đầu và giải quyết tốt các mối quan hệ của cấp ủy trong công
tác cán bộ. Căn cứ quy định, quy chế của Trung ương, cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc để phù
hợp với tình hình thực tế; quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập
thể và cá nhân cấp ủy viên, các mối quan hệ công tác giữa cấp ủy cơ sở
với thường trực, ban thường vụ cấp ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc
của cấp ủy cấp trên; với thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Tổ chức thực hiện
nghiêm quy chế làm việc sẽ góp phần tạo sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về
các nguyên tắc sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác cán bộ. Gắn việc kiểm
điểm tập thể, cá nhân về vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị với công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ;
kiểm điểm sâu sắc việc chấp hành quy chế làm việc, rút ra những bài học
kinh nghiệm trong quá trình thực hiện quy chế, xem việc xây dựng và thực
hiện tốt quy chế là một trong những biện pháp để nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu, tăng cường đoàn kết, thống nhất của tổ chức đảng.
Thứ tư, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, thành viên tập thể lãnh đạo và bí thư cấp ủy trong công tác cán bộ. Để
thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, tập
thể cấp ủy, tổ chức đảng, bí thư cấp ủy, tập thể lãnh đạo các địa
phương, cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc các nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác
cán bộ; thường xuyên tự kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những sai sót và
chịu trách nhiệm về những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ
thuộc phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm được giao. Thành viên tập thể
lãnh đạo phải thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình
trong công tác cán bộ; phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác, trung thực
đến cấp có thẩm quyền những nội dung có liên quan đến nhân sự mà cá nhân
được phân công theo dõi, quản lý; thể hiện rõ chính kiến và chịu trách
nhiệm về ý kiến của mình, được bảo lưu ý kiến và chịu trách nhiệm cá
nhân trong việc đề xuất nhân sự và trong việc nhận xét, đánh giá, xác
nhận hồ sơ, lý lịch, các giấy tờ có liên quan của nhân sự thuộc thẩm
quyền phụ trách; chịu trách nhiệm khi để xảy ra tiêu cực, sai phạm trong
công tác cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực thuộc thẩm
quyền được giao quản lý, phụ trách. Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm
của bí thư cấp ủy, người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện nghiêm nguyên
tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; thực hiện công
khai, minh bạch các nội dung về công tác cán bộ theo quy định; chỉ đạo
chuẩn bị đầy đủ hồ sơ nhân sự và cung cấp cho các thành viên liên quan
theo quy chế làm việc của cấp ủy; kịp thời chỉ đạo thực hiện quy trình
nhân sự; dành thời gian thỏa đáng để tập thể thảo luận thật sự dân chủ;
không vận động, thao túng, áp đặt ý kiến chủ quan, tác động, gây nhiễu
thông tin, gây sức ép để người khác nhận xét, đánh giá, biểu quyết, bỏ
phiếu, quyết định nhân sự theo ý mình; kết luận đầy đủ, chính xác, trung
thực, khách quan những nội dung thảo luận; báo cáo kịp thời, đầy đủ,
trung thực, khách quan, đúng bản chất ý kiến của tập thể lãnh đạo với
cấp có thẩm quyền, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về công
tác cán bộ.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ. Cấp
ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần coi trọng việc xây dựng, thực hiện tốt
chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Đẩy mạnh công
tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề,
chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên;
coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm. Chú trọng kiểm
tra, giám sát các cơ quan tham mưu, giúp việc, các cơ quan cấp dưới và
cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý trong thực hiện nhiệm vụ về công
tác cán bộ. Kịp thời kiểm tra, xác minh, kết luận những vấn đề mới phát
sinh trong công tác cán bộ ở các cấp, các ngành. Hủy bỏ, thu hồi các
quyết định không đúng về công tác cán bộ; xử lý kịp thời, nghiêm minh
tập thể, cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán
bộ. Thực hiện công khai, minh bạch các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và
hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu
cầu. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử; vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị -
xã hội và nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán
bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ. Nghiên
cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách phù hợp. Hoàn thiện cơ chế
tiếp nhận và xử lý kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân
gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị
và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp,
hiệu quả./.
MAI VĂN CHÍNH
Ủy viên Trung ương Đảng
Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương
____________________
(1) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.41, tr.253.
(2) (3) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.185, 186.
(4) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.8, tr.275, 263-264.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.438.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr .620.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.830.
(10) (11) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19/1/2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.5, 17-19.
(12) Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về Phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
(13) Như: Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính
trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền; Quy định số 42-QĐ/TW ngày 3/10/2016 của Ban Bí thư về Nhiệm
vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh ủy, thành ủy; Quy định số
04-QĐi/TW ngày 25/7/2018 của Ban Bí thư về Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh
ủy, thành ủy; Quyết định số 162-QĐ/TW ngày 5/12/2018 của Ban Bí thư về việc Ban hành Quy chế làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng
trực thuộc Trung ương; Quy định số 10-QĐi/TW ngày 12/12/2018 của Bộ
Chính trị về Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác
của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Quyết định số 168-QĐ/TW ngày 28/12/2018 của Ban Bí thư về việc ban
hành Quy chế làm việc mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương;
Quy định số 202-QĐ/TW ngày 2/8/2019 của Ban Bí thư về Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ,
thường trực cấp ủy cấp huyện;...
(14) Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung
ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng; Quy định số
89-QĐ/TW ngày 4/8/2017 của Bộ Chính trị về Khung tiêu chuẩn chức
danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp; Kết luận số 24-KL/TW ngày 15/12/2017 của Bộ Chính trị về Nguyên tắc điều động, phân công, bố trí công tác đối với cán bộ Trung
ương luân chuyển; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 8/3/2018 của Bộ Chính
trị về việc Kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối
với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị; Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 179-QĐ/TW ngày
25/2/2019 của Bộ Chính trị về Chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán
bộ; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy
quyền; Quy định số 214-QĐ/TW ngày 2/1/2020 của Bộ Chính trị về Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;....
(15) (17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr. 267-268, 273.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.90.
(Nguồn: TC Cộng sản)