Các ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với Tờ trình
của Chính phủ về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, ban hành mới Nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ, chính sách và
các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp.
Sáng 25/4, tại Hà Nội, đã khai mạc phiên họp thứ 47 Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII.
Phát biểu khai mạc phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho
biết phiên họp 47, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về 5 vấn đề quan
trọng. Thứ nhất xem xét, đánh giá kết quả kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa
XIII và cho ý kiến bước đầu về việc chuẩn bị kỳ họp thứ nhất, Quốc hội
khóa XIV.
Thứ 2 cho ý kiến về việc ban hành Nghị quyết về chế độ và các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thứ 3 cho ý kiến về Tờ trình của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về các
nội dung: về trang phục và Chứng minh thư của Thẩm phán Tòa án nhân
dân; về chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức
và người lao động trong Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014; về bổ sung tạm thời về biên chế, số lượng Thẩm
phán Cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Thứ 4 cho ý kiến
về việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016-2019 tại một số nước. Thứ 5
cho ý kiến về các dự thảo Nghị quyết về việc phân loại đơn vị hành
chính; Nghị quyết về tiêu chuẩn đơn vị hành chính và việc nhập chia điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính; Nghị quyết về phân loại đô thị.
Giữ nguyên mức hoạt động phí hiện hành với đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
Ngay sau khai mạc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc ban hành
Nghị quyết về chế độ và các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu
Hội đồng nhân dân.
Tờ trình của Bộ Nội vụ do Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân trình bày cho biết dự
thảo Nghị quyết gồm 07 Điều trên cơ sở kế thừa các quy định về chế độ
cung cấp báo cáo, tài liệu tại Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH1.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về tiền lương, hoạt động phí, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp mai táng, khen thưởng theo quy định của
pháp luật; bổ sung quy định về phòng làm việc, máy móc, trang thiết bị
văn phòng đối với đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; chi
hỗ trợ công tác phí; khám, chăm sóc sức khỏe định kỳ; may lễ phục; học
tập, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đại biểu.
Qua thảo luận, các ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất
trí với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế
độ, chính sách và các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Hội đồng
Nhân dân các cấp.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý nhấn mạnh việc
thông qua dự thảo Nghị quyết là cấp thiết để cụ thể hóa những quy định
tại Điều 103 của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; sửa đổi,
bổ sung các chế độ, chính sách đối với đại biểu Hội đồng Nhân dân để phù
hợp với tình hình thực tế và quy định của pháp luật hiện hành có liên
quan.
Nhiều ý kiến đề nghị ban soạn thảo cần tập trung làm rõ các bất cập
trong các quy định chế độ đối với đại biểu Hội đồng Nhân dân ở một số
văn bản; trên cơ sở đó rà soát lại hệ thống văn bản đã làm hạn chế việc
áp dụng các chế độ, chính sách hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân ở
các địa phương khác nhau. Đồng thời, phải bảo đảm được tính thống nhất
về chế độ của đại biểu Hội đồng Nhân dân trên cả nước, thể hiện được sự
công khai, minh bạch và tương đồng về chế độ, chính sách được hưởng giữa
đại biểu Hội đồng Nhân dân.
Tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, Phó Chủ tịch Quốc hội
Uông Chu Lưu nhấn mạnh cần làm rõ việc Nghị quyết mới ra đời có đảm bảo
để hoạt động của Hội đồng Nhân dân thực hiện hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp
ứng yêu cầu thực tế, khắc phục những hạn chế, bất cập lâu nay là vật
cản làm giảm hiệu quả hoạt động của Hội đồng Nhân dân.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng theo Hiến pháp và Luật tổ
chức chính quyền địa phương, vai trò, vị trí của Hội đồng Nhân dân đã
được tăng cường, qua đó tăng tính hiệu lực của cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương nên nếu để chế độ, chính sách, các điều kiện bảo đảm
hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân như 10 năm trước đây là không
hợp lý, cần thiết phải sửa đổi.
Hoạt động phí đối với đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp được nhiều đại
biểu quan tâm, cho ý kiến tại phiên thảo luận sáng nay. Tờ trình của
Chính phủ trình 2 phương án: Phương án 1: giữ nguyên như hiện hành;
Phương án 2: tăng thêm 0,1 mức lương cơ sở ở cả 3 cấp (thành 0,4; 0,5,
0,6 mức lương cơ sở tương ứng với cấp xã, huyện, tỉnh).
Theo Tờ trình của Chính phủ, Phương án 1: Giữ mức hoạt động phí hiện
hành tại Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 gồm 3 mức: 0,3 mức lương cơ
sở đối với cấp xã; 0,4 mức lương cơ sở đối với cấp huyện, 0,5 mức lương
cơ sở đối với cấp tỉnh. Dự kiến quỹ hoạt động phí theo phương án này là
1.461,4 tỉ đồng/năm.
Thực hiện phương án này bảo đảm được tương quan với mức phụ cấp trách
nhiệm cấp ủy viên tại Quy định số 169-QĐ/TW ngày 24 tháng 6 năm 2008 của
Ban Bí thư Trung ương và mức phụ cấp trách nhiệm công việc cao nhất quy
định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của
Chính phủ nhưng sau hơn 10 năm thực hiện nhiều địa phương đề nghị tăng
thêm để góp phần động viên, khuyến khích các đại biểu khi mức lương cơ
sở còn thấp.
Phương án 2 tăng thêm 0,1 mức lương cơ sở ở cả 3 cấp so với quy định tại
Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11, cụ thể: 0,4 mức lương cơ sở đối với
cấp xã; 0,5 mức lương cơ sở đối với cấp huyện; 0,6 mức lương cơ sở đối
với cấp tỉnh. Dự kiến quỹ hoạt động phí chi cho đại biểu Hội đồng nhân
dân theo phương án này là 1.932,6 tỉ đồng/năm.
Về vấn đề này, đa số ý kiến Thường trực Ủy ban Tài chính- Ngân sách của
Quốc hội là cơ quan thẩm tra tán thành với Phương án 2 của Chính phủ vì
cho rằng, mức hoạt động phí hiện hành đối với đại biểu Hội đồng Nhân dân
còn thấp. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng do chế độ đã được
ban hành hơn 10 năm nên mức hoạt động phí này không còn phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội hiện nay, chưa thực sự khuyến khích đại biểu
Hội đồng Nhân dân hoạt động tích cực, cần thiết phải sửa đổi.
Tuy nhiên một số ý kiến băn khoăn vì thực hiện phương án 2 thì mức hoạt
động phí của đại biểu Hội đồng nhân dân tăng lên sẽ động viên, khuyến
khích đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tuy nhiên, ngân sách nhà nước
phải bố trí tăng thêm khoảng 471,2 tỉ đồng/năm và mức hoạt động phí của
đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ phát sinh bất hợp lý (cao hơn) với mức phụ
cấp trách nhiệm của cấp ủy viên tại Quy định số 169-QĐ/TW ngày
24/6/2008 của Ban Bí thư Trung ương.
Qua thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với phương án 1 của
Chính phủ trình. Theo đó đại biểu Hội đồng Nhân dân (bao gồm cả đại biểu
hoạt động chuyên trách và hoạt động không chuyên trách) được hưởng hoạt
động phí hàng tháng như sau: a) Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã: Hệ
số 0,3 mức lương cơ sở; b) Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện: Hệ số
0,4 mức lương cơ sở; c) Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: Hệ số 0,5
mức lương cơ sở; d) Đại biểu Hội đồng nhân dân của đơn vị hành
chính-kinh tế đặc biệt được thành lập tương đương với cấp tỉnh hoặc cấp
huyện thì được hưởng hoạt động phí tương ứng với cấp đó.
Theo đề nghị của Chính phủ thì Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/6/2016.
Nhiều ý kiến cho rằng, do văn bản này được ban hành không phải là trong
trường hợp khẩn cấp, nên áp dụng khoản 1 Điều 78 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, đề nghị thời gian có hiệu lực là ngày 1/7/2016.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã biểu quyết thông qua về mặt nguyên tắc dự
thảo Nghị quyết về chế độ và các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Trang phục của Thẩm phán khi xét xử phải thể hiện được sự uy nghiêm, trang trọng
Thời gian còn lại của phiên làm việc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý
kiến cho ý kiến về Tờ trình của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về các
nội dung: về trang phục và Chứng minh thư của Thẩm phán Tòa án nhân dân;
về chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động trong Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014; về bổ sung tạm thời về biên chế, số lượng Thẩm
phán Cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp.
Thẩm tra Tờ trình của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ,
công chức trong Tòa án nhân dân, về hệ thống thang, bảng lương đối với
các ngạch Thẩm phán, các ngạch Thẩm tra viên, các ngạch Thư ký Tòa án,
Ủy ban Tư pháp có quan điểm Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy
định thêm hai chức danh mới là Thư ký viên chính và Thư ký viên cao cấp;
đồng thời giao Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về tiêu chuẩn,
điều kiện và việc thi nâng ngạch đối với Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.
Tuy nhiên, đến nay các tiêu chuẩn, điều kiện và việc thi nâng ngạch này
vẫn chưa được quy định. Mặt khác, đây không phải là việc thành lập tổ
chức mới. Vì vậy, nếu bổ sung ngay thang, bảng lương đối với các chức
danh này là chưa phù hợp, dẫn đến phải bổ sung thang, bảng lương mới của
Thẩm tra viên, Thẩm phán, làm thay đổi toàn bộ hệ thống thang, bảng
lương của tất cả cán bộ, công chức Tòa án ở mức độ cao hơn hiện nay.
Về vấn đề này, Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ cũng đã có ý kiến “đề
nghị áp dụng chung các bảng lương hiện hành, không xây dựng bảng lương
mới”. Vì vậy, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị vẫn áp dụng hệ thống
thang, bảng lương của cách chức danh này theo quy định hiện hành, được
quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội.
Ủy ban Tư pháp thấy rằng chế độ tiền lương của Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, việc chấp nhận phương án nào do Tòa án nhân dân tối cao đề
xuất cần phải được xem xét kỹ lưỡng.
Trong khi chưa có Đề án tổng thể của Nhà nước về cải cách tiền lương thì
cần tiếp tục áp dụng Nghị quyết số 81/2014/NQ-QH13 của Quốc hội để Thẩm
phán cao cấp, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục được hưởng
thang, bảng lương theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội (thang, bảng lương của công chức A3, gồm 6 bậc từ 6,2
đến 8,0). Quy định như vậy là bảo đảm tương ứng với tiền lương của Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trường hợp Thẩm phán cao cấp được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thì xếp lên 1 bậc lương liền kề của bậc lương hiện hưởng tại
thời điểm bổ nhiệm là phù hợp.
Về Tờ trình của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về trang phục Thẩm
phán, Hội thẩm Tòa án nhân dân; Giấy chứng minh Thẩm phán và Giấy chứng
minh Hội thẩm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị trang phục xét
xử của Thẩm phán là áo choàng dài tay màu đen nhằm thể hiện toàn diện,
sâu sắc nhất hình ảnh của Tòa án và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng
thời đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao cho Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao quy định về thiết kế riêng của từng loại trang phục xét xử của
các ngạch Thẩm phán. Thẩm tra nội dung này, đa số ý kiến Thường trực Ủy
ban Tư pháp đồng ý với đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
sung trang phục xét xử của Thẩm phán là áo choàng dài tay màu đen vì
Thẩm phán là người trực tiếp tiến hành xét xử, thực hiện quyền tư pháp
và nhân danh Nhà nước để tuyên các bản án, quyết định liên quan đến
quyền, lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Do đó, trang phục của Thẩm phán khi xét xử phải thể hiện được sự uy
nghiêm, trang trọng cũng như cần tính đến yếu tố hội nhập quốc tế. Hiện
nay, Thẩm phán sử dụng trang phục làm việc để tiến hành xét xử là chưa
thể hiện được tính đặc trưng, khác biệt với trang phục của nhân viên các
cơ quan, tổ chức và của người khác. Tuy nhiên, mẫu mã, mầu sắc cụ thể
của áo choàng xét xử của Thẩm phán do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết
định mà không giao cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định....
Theo chương trình, chiều nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến đánh
giá kết quả kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII và cho ý kiến bước đầu về
việc chuẩn bị kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV; cho ý kiến về việc phê
chuẩn đề nghị bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016-2019 tại một số nước./.
(TTXVN)