UNG THƯ VÀ CHẨN ĐOÁN UNG THƯ
Ung
thư là tập hợp một nhóm các bệnh lý có nguyên nhân từ sự xuất hiện của
các tế bào bất thường trong cơ thể. Các tế bào này bản chất đều có đột
biến gene, phát triển mất kiểm soát, xâm lấn các mô, cơ quan bên cạnh
hoặc di chuyển (di căn) đến nhiều cơ quan khác trong cơ thể và gây nên
các triệu chứng. Những đột biến này có thể do di truyền, do các tác nhân
vật lý (tia xạ, tia cực tím, nhiệt độ...), hóa học (độc chất, hóa chất
trừ sâu diệt cỏ...), sinh học: vi khuẩn, virus (Helicobacter Pylori;
virus viêm gan B, virus Epstein - Barr, virus gây u nhú thường truyền
qua đường sinh dục...), ký sinh trùng (sán Schistosoma). Con người bị
phơi nhiễm với các tác nhân nói trên từ môi trường tự nhiên, môi trường
làm việc, thức ăn nước uống, từ các thói quen sinh hoạt hằng ngày: hút
thuốc lá, sinh hoạt tình dục không an toàn, nhiễm bệnh lý khi cơ thể suy
yếu.
Ước tính, một người bình thường sẽ có khoảng 30 nghìn tỷ tế
bào gồm hơn 200 loại khác nhau. Các tế bào này liên tục sinh sản và
chết theo chu trình, trong đó luôn có các tế bào bị đột biến. Tuy nhiên,
có một số người nhất định trong đó bị ung thư khi có tế bào bị đột biến
nhưng không bị hệ miễn dịch của cơ thể phát hiện và tiêu diệt hoặc các
tế bào này không thể bị tiêu diệt, điều kiện của cơ thể và môi trường
bên ngoài thuận lợi để chúng phát triển mất kiểm soát. Như vậy, ung thư là các tế bào đột biến phát triển mất kiểm soát để hình thành khối u trong cơ thể.
Các
giai đoạn phát triển của ung thư bao gồm giai đoạn tiền ung thư (đã có
các tế bào ung thư ở một cơ quan nào đó nhưng chưa phát triển thành khối
u); Giai đoạn ung thư phát triển thành khối u tại chỗ; Giai đoạn khối u
đã có di căn gần sang các tổ chức, cơ quan lân cận; Giai đoạn khối u đã
có di căn xa.
Chẩn đoán ung thư dựa vào: Các dấu hiệu lâm sàng
như gầy sút, mệt mỏi kéo dài không rõ nguyên nhân; ho ra máu, khó thở,
đau ngực (ung thư phổi), đau vùng gan, vàng da vàng mắt (ung thư gan);
tiểu máu (ung thư hệ tiết niệu); đau đầu (u não)... kết hợp với các biện
pháp cận lâm sàng gồm chẩn đoán hình ảnh (Siêu âm, XQ, CT, MRI...), xét
nghiệm (các chất chỉ điểm-markers ung thư, vi khuẩn, virus có liên quan
đến ung thư...), và sinh thiết mô xác định tế bào ung thư là tiêu chuẩn
vàng để chẩn đoán ung thư. Chẩn đoán được ung thư ở giai đoạn tiền ung thư được coi là sớm. Thông
thường ung thư được phát hiện khi người bệnh đã có biểu hiện lâm sàng
đến khám tại các cơ sở y tế hoặc tình cờ được phát hiện qua các lần khám
sức khỏe định kỳ.
CÓ TẦM SOÁT, SÀNG LỌC UNG THƯ HAY KHÔNG?
Vấn
đề được đặt ra là một người bình thường, chưa có triệu chứng có nên đi
khám để chẩn đoán ung thư hay không? Việc này được gọi là tầm soát hay
khám sàng lọc ung thư. Câu trả lời là nên.
Trong rất nhiều
trường hợp, ung thư phát triển mà không có biểu hiện lâm sàng, hoặc do
các dấu hiệu bệnh lý diễn tiến âm thầm, người bệnh không để ý, hoặc chủ
quan, cho nên khi phát hiện ra thì đã quá muộn, khả năng đáp ứng điều
trị rất kém hoặc không thể điều trị được nữa. Vì vậy, việc sàng lọc ung
thư sớm sẽ phát hiện các khối u ở giai đoạn tiền ung thư, ung thư chưa
di căn hoặc mới di căn vào các cơ quan bên cạnh. Điều này cực kỳ quan
trọng vì phát hiện càng sớm đồng nghĩa với việc điều trị càng có hiệu
quả, thậm chí có thể khỏi bệnh. Thống kê cho thấy một số bệnh có thể tầm
soát ung thư hiệu quả như ung thư phổi, đại tràng, vú, tiền liệt tuyến,
tử cung... Bên cạnh chẩn đoán ung thư sớm, sàng lọc cũng giúp phát hiện
và loại bỏ các yếu tố nguy cơ có thể gây ung thư như nội soi cắt polyp
đại tràng, cắt hớt niêm mạc dạ dày...
Tuy nhiên, sàng lọc chẩn
đoán ung thư sớm cũng còn nhiều điều bất cập. Thứ nhất là sàng lọc có tính
chất thời điểm. Ở thời điểm sàng lọc có thể chưa phát hiện ung thư nhưng
không có gì bảo đảm ung thư sẽ không xuất hiện sau sàng lọc. Thứ hai là
sàng lọc có thể cho kết quả dương tính giả (cho kết quả nghi ung thư
nhưng thực tế không phải) hoặc âm tính giả (sàng lọc không phát hiện ung
thư nhưng người bệnh lại đang bị ung thư).
Tầm soát ung thư
cũng chỉ có nghĩa là tìm các dấu hiệu ung thư (như xét nghiệm các chất
do khối u tiết ra có cao hay không, chiếu chụp xem các cơ quan có hình
ảnh khối u hay không...) và sau đó, dựa trên các dấu hiệu gợi ý mới sinh
thiết mô để có chẩn đoán xác định. Xét nghiệm tầm soát thấy gene đột
biến cũng không có nghĩa là người đó sẽ bị ung thư trong tương lai. Thêm
nữa, với hàng trăm loại ung thư thì tầm soát như thế nào cho xuể? Cuối
cùng, tầm soát sàng lọc ung thư cũng gây tốn kém lớn và nhiều khi mang
lại lo lắng không cần thiết.
TẦM SOÁT UNG THƯ SAO CHO PHÙ HỢP
Như
trên đã nói, tầm soát ung thư là một việc nên làm nhưng ai cần làm, làm
khi nào, làm bao nhiêu lần, tầm soát ung thư gì, đánh giá, xử lý kết
quả sau tầm soát sao cho phù hợp để có những phương án tốt nhất giúp cho
người bệnh là những vấn đề không dễ!
Điều
đầu tiên là không phải tất cả mọi người đều cần sàng lọc ung thư và
không phải tất cả mọi loại ung thư đều cần phải sàng lọc. Chỉ định sàng
lọc dựa vào các yếu tố nguy cơ phát sinh ung thư đối với mỗi cá thể. Thí
dụ như tuổi 45 trở lên đối với ung thư đại tràng, tiền sử gia đình có
người ung thư hoặc đối với những loại ung thư có tính chất gia đình,
tiền sử hút thuốc lá từ 20 bao trở lên/năm... và đối với từng loại ung
thư sẽ có các yếu tố gợi ý cần sàng lọc ung thư đó hay không.
Thêm
nữa, các biện pháp tầm soát cũng được chỉ định cho từng loại cơ quan
sau khi thăm khám lâm sàng. Thí dụ, chụp cắt lớp phổi liều thấp tầm soát
ung thư phổi; nội soi, xét nghiệm phân tầm soát ung thư đại tràng; siêu
âm, chọc hút kim nhỏ tầm soát ung thư tuyến giáp... Xét nghiệm các chất
chỉ điểm ung thư (Marker ung thư) ít có giá trị trong tầm soát ung thư
do không đặc hiệu với từng loại ung thư, cao không có nghĩa là bị ung
thư và thấp cũng không loại trừ được ung thư.
Như vậy, chọn lựa
đối tượng vào các nhóm cần sàng lọc ung thư đều phải được chỉ định chặt
chẽ dựa trên các bộ tiêu chuẩn đã được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi.
Rõ
ràng tầm soát chẩn đoán ung thư sớm không hề đơn giản như quảng cáo.
Việc tổ chức tầm soát đại trà là hoàn toàn không cần thiết và gây lãng
phí lớn cho xã hội, nguy cơ cho cá thể cũng như tạo ra tâm lý sính...
sàng lọc trong cộng đồng.
Để công tác sàng lọc chẩn đoán sớm ung
thư được tổ chức tốt và có hiệu quả, về phía chuyên môn: chỉ tổ chức
sàng lọc những loại ung thư đã có nghiên cứu rõ ràng về hiệu quả sàng
lọc và đã được các hiệp hội chuyên ngành khuyến cáo, hướng dẫn, Bộ Y tế
cho phép cũng như chỉ định sàng lọc chặt chẽ đúng đối tượng. Đối với cơ
quan quản lý nhà nước: chỉ cấp phép cho những đơn vị đủ điều kiện sàng
lọc; Tổ chức giám sát kiểm tra công tác sàng lọc. Có chế tài nghiêm khắc
đối với những đơn vị vi phạm. Đối với người dân, cần tìm hiểu kỹ, hỏi ý
kiến các nhà chuyên môn trước khi quyết định đi sàng lọc ung thư để
tránh tiền mất tật mang./.
PGS. TS. Bác sĩ VŨ ÐỨC ÐỊNH (nhandan.vn)