Sau một thời gian phát triển quá nóng, nay cá tra Việt Nam đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề nổi cộm, kể cả sản xuất trong nước cũng như trên
thị trường xuất khẩu. Đó là chi phí sản xuất cao, quá trình sản xuất
chưa được tối ưu, sản phẩm chưa được gia tăng chế biến… nên cá tra Việt
Nam đã bị giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đặc biệt tại thị
trường lớn EU.
Lãng phí quá nhiều trong sản xuất, chế biến
Phát biểu trong hội thảo “Phát triển cá tra bền vững tại Việt Nam, các
phân tích và khuyến nghị về chính sách” do Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu thủy sản Việt Nam tổ chức ngày 16/11, tại Hà Nội, ông Lê Xuân
Thịnh, Giám đốc Dự án Xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững ở Việt
Nam, cho biết từ năm 2000 đến 2014, ngành cá tra đã phát triển khá nóng.
Tính riêng giai đoạn 2002-2009, trị giá xuất khẩu cá tra mỗi năm tăng
lên từ 2-3 lần. Trị giá xuất khẩu cá tra bắt đầu chững lại và bão hòa từ
năm 2011.
Giá xuất khẩu cá tra liên tục giảm, năm 2002, giá xuất khẩu trung bình
3,11 USD/kg nhưng sau đó giảm, thậm chí năm nay chỉ còn ở mức 2,1-2,3
USD/kg. Vài năm trở lại đây, sản lượng cũng như giá bán cá tra trên thị
trường không tăng. Trong chuỗi sản xuất, người nuôi cá lãi ít, thậm chí
các hộ nuôi còn phải bù lỗ do giá bán dưới giá thành sản xuất (năm
2010).
Theo ông Lê Xuân Thịnh, do phát triển khá nóng trong những năm vừa qua
nên sản xuất, chế biến, xuất khẩu cá tra đang phải đối mặt với nhiều vấn
đề nổi cộm. Đó là chất lượng sản phẩm không ổn định và thiếu đồng nhất;
nền sản xuất thiếu bền vững bởi chi phí sản xuất ngày càng gia tăng như
điện, nước.
Có nhiều nguyên nhân khiến cho cá tra xuất khẩu ngày càng phải đối mặt
với nhiều thách thức, điển hình là chi phí thức ăn. Hiện cơ cấu chi phí
giá thành gồm nhiều loại như giống, thức ăn, hóa chất xử lý môi trường,
thuốc, lãi vay ngân hàng và chi phí khác; trong đó, chi phí thức ăn
chiếm tới 75-77%. Trong khi đó, có tới 80% thức ăn phải nhập khẩu mà
chưa thể tự chủ được.
Một trong những vấn đề nổi cộm nữa hiện nay trong quá trình chế biến cá
tra tại các doanh nghiệp là mức sử dụng nhiên liệu cao. Quy mô ngành
trung bình khoảng 600 kW/tấn sản phẩm nhưng hiện đang có doanh nghiệp sử
dụng tới 800 kW, cá biệt có doanh nghiệp sử dụng tới 1.500 kW/tấn sản
phẩm. Hay như sử dụng nước trong chế biến cá tra, mức trung bình chỉ là
15m3/tấn sản phẩm nhưng có doanh nghiệp sử dụng 26-30m3/tấn.
"Có thể thấy hiện nay, ngành cá tra đang lãng phí nhiều tài nguyên từ
khâu nuôi cho đến chế biến. Sự lãng phí trên còn gây hậu quả là nước
thải, chất thải rắn trong chế biến cũng tăng cao" - ông Lê Xuân Thịnh,
cho hay.
Theo ông Lê Xuân Thịnh, vấn đề cần quan tâm của ngành cá tra hiện nay là
chất lượng sản phẩm không ổn định và thiếu đồng nhất; các tác động của
môi trường và xã hội ngày càng rõ ràng; chi phí sản xuất ngày càng tăng,
sản phẩm chế biến thấp, chủ yếu là phi lê. Điều này cho thấy một nền
sản xuất vẫn thiếu bền vững.
Thu hoạch cá tra tại Cần Thơ. (Ảnh: TTXVN)
Hết thời cạnh tranh giá rẻ
Tiến sỹ Siegfried Bank, chuyên gia tư vấn chính sách đến từ Đức cho
biết, thị trường EU chiếm khoảng 25% thị phần xuất khẩu cá tra. Có thể
nói EU không ảnh hưởng lớn về mặt thị trường nhưng những chính sách của
EU có thể tác động đến nhiều thị trường, bởi các thị trường thường tham
khảo các quy định của EU để quyết định việc nhập khẩu cá tra.
Thời gian gần đây, cá tra Việt Nam vào thị trường EU bị cạnh tranh mạnh
bởi các loại cá thịt trắng khác. Thị trường sản xuất cá trắng ổn định
hơn, giá rẻ hơn cá tra khiến cá tra Việt Nam vào thị trường EU bị ép
giá. Do bị ép giá một số doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh bằng
cách tăng thêm nước vào sản phẩm nhưng không khai báo, tỷ lệ mạ băng
thấp hơn so với khai báo.
Việt Nam đang quyết tâm nâng cao chất lượng cá tra xuất khẩu, điển hình như qua quy định mới về hàm lượng ẩm hay tỷ lệ mạ băng.
Theo ông Siegfried Bank, thị trường EU không có quy định cụ thể về các
tiêu chuẩn này nhưng yêu cầu phải có khai báo, phải công bố khối lượng
tịnh. Với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, doanh nghiệp xuất
khẩu phải đáp ứng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, của người tiêu dùng.
Thị trường luôn mong muốn tỷ lệ mạ băng giảm, ít phụ gia.
Đánh giá về việc ngành cá tra phấn đấu các cơ sở nuôi phải áp dụng và
được chứng nhận VietGAP về thực hành nuôi trồng thủy sản tốt hoặc các
chứng nhận phù hợp với quy định của Việt Nam, ông Siegfried Bank cho
rằng, điều này sẽ giúp cá tra Việt Nam được truy xuất nguồn gốc sẽ dễ
hơn. Đây sẽ là công cụ tốt để xây dựng một hình ảnh mới, nâng cao hình
ảnh cá tra. Điều này sẽ thực sự tốt nếu đi liền với sản phẩm có chất
lượng cao.
Tiến sỹ Siegfried Bank cho rằng, Việt Nam không chỉ có các doanh nghiệp
đã đạt chứng chỉ VietGAP mà còn có doanh nghiệp đạt chứng chỉ ASC. Các
doanh nghiệp Việt Nam nên dừng cạnh tranh giá rẻ mà nên cạnh tranh giá
cao. Việt Nam cần tạo sự khác biệt, đẳng cấp của sản phẩm cá tra. Tạo ra
các sản phẩm cá tra khác nhau phục vụ các thị thị trường khác nhau,
tương xứng với các mức giá của nó. Việt Nam nên từng bước có chiến lược
đẩy chất lượng cũng như có các mức giá xứng đáng với chất lượng tiềm
năng của cá tra trên thị trường.
Theo ông Lê Xuân Thịnh, tiềm năng phát triển cá tra còn rất lớn và doanh
nghiệp cần phải cắt giảm chi phí giá thành sản xuất để tăng tính cạnh
tranh thông qua tối ưu hóa quá trình sản xuất; nâng cao chất lượng và đa
dạng hóa sản phẩm; sản xuất áp dụng công nghệ mới và đặc biệt là xây
dựng hình ảnh cá tra Việt Nam “xanh” và “ngon"./.
Bích Hồng (TTXVN)