Văn bản hướng dẫn trên được ban hành cũng để nhằm đạt được một trong các
mục tiêu của chiến lược 90-90-90: 90% người nhiễm HIV được biết tình
trạng HIV của họ, 90% người nhiễm HIV đã biết tình trạng nhiễm HIV được
điều trị bằng thuốc ARV và 90% người nhiễm HIV điều trị ARV đạt được tải
lượng HIV dưới ngưỡng ức chế đồng thời hướng đến mục tiêu kết thúc AIDS
vào năm 2030.
Hướng dẫn này có nhiều thay đổi so với các hướng dẫn trước đây nhằm tăng
cường cho người có hành vi nguy cơ cao và người nhiễm HIV tiếp cận sớm
với các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS.
Một trong những thay đổi là nâng ngưỡng tiêu chuẩn bắt đầu điều trị bằng
thuốc kháng virus (ARV) cho người nhiễm HIV từ 350 CD4/mm3 máu lên 500
tế bào CD4/mm3 máu.
Đặc biệt, điều trị ARV ngay không phụ thuộc vào số lượng tế bào CD4 cho
người nhiễm HIV ở các giai đoạn lâm sàng 3 hoặc 4 đối với người nhiễm
HIV mắc lao, người nhiễm HIV có biểu hiện của viêm gan virus B mạn tính
nặng, phụ nữ mang thai và phụ nữ đang cho con bú nhiễm HIV, người nhiễm
HIV có vợ/chồng không bị nhiễm HIV, người nhiễm HIV thuộc các quần thể
nguy cơ (như: người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm, nam quan hệ tình
dục đồng giới), người nhiễm HIV ≥ 50 tuổi, người nhiễm HIV sinh sống,
làm việc tại khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và tất cả trẻ
em dưới 5 tuổi.
Việc điều trị ARV dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con cũng thay đổi.
Theo đó, tất cả phụ nữ mang thai nhiễm HIV và mẹ nhiễm HIV cho con bú sẽ
được điều trị ngay bằng thuốc ARV không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng và
số lượng tế bào CD4, không phụ thuộc các giai đoạn của thai kỳ; điều
trị ARV trong suốt thời kỳ mang thai, trong khi chuyển dạ, sau khi sinh
con và tiếp tục điều trị suốt đời.
Ngoài việc thay đổi về tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV, hướng dẫn mới
cũng thay đổi phác đồ bậc 1 trên cơ sở ưu tiên sử dụng ba loại thuốc có
hiệu quả cao, ít tác dụng phụ, giúp việc tuân thủ và điều trị có hiệu
quả hơn.
Hướng dẫn mới cũng đã thay đổi các phác đồ điều trị bậc 2 và hướng dẫn
việc điều trị bằng phác đồ bậc 3 khi phác đồ bậc 1 và bậc 2 thất bại.
Việc thay đổi Hướng dẫn điều trị HIV mới đã giúp những người nhiễm HIV
có cơ hội tiếp cận sớm dịch vụ điều trị cho người nhiễm mới HIV, giúp
người nhiễm HIV tiếp tục sống mạnh khỏe và có ích cho xã hội.
Cục Phòng, chống HIV/AIDS nhấn mạnh tình trạng sức khỏe của người nhiễm
HIV/AIDS phụ thuộc chủ yếu vào sự “cân bằng” giữa sức đề kháng (đo bằng
số lượng tế bào CD4) và nồng độ HIV trong máu. Mọi can thiệp nhằm tăng
sức đề kháng hoặc giảm nồng độ HIV trong máu hoặc cả hai đều có tác động
giúp người nhiễm HIV có cuộc sống khỏe mạnh lâu dài. Hiện nay, thế giới
vẫn chưa tìm ra thuốc chữa khỏi HIV/AIDS nên điều trị bằng thuốc kháng
HIV (thuốc ARV) được coi là điều trị đặc hiệu. Khi hệ miễn dịch chưa bị
suy giảm thì không có nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc chỉ
mắc ở mức độ nhẹ.
Tổ chức Y tế thế giới đã nghiên cứu và chỉ ra rằng người nhiễm HIV điều
trị ARV sớm và duy trì điều trị tốt sẽ có tuổi thọ không thua kém người
bình thường. Việc điều trị bằng ARV kịp thời còn giúp cải thiện chất
lượng sống cho người bệnh. Khi người nhiễm HIV khỏe mạnh, họ có khả năng
lao động và làm việc bình thường, tự tin sống hòa nhập với cộng đồng.
Điều trị ARV kịp thời sẽ giảm nguy cơ tiến triển AIDS, giảm mắc các
nhiễm trùng cơ hội và tử vong ở người nhiễm HIV; đặc biệt là giảm nguy
cơ bệnh lao. Điều trị ARV không chỉ làm giảm đáng kể số tử vong do AIDS
hằng năm, mà còn giảm đến khoảng 95% khả năng lây nhiễm HIV cho người
khác.
Tại Việt Nam, hoạt động điều trị ARV được mở rộng từ năm 2005. Nhờ đó,
số người nhiễm HIV được cứu sống tăng dần qua các năm. Theo báo cáo, năm
2005 có khoảng 8.000 tử vong do AIDS thì đến năm 2014 chỉ còn hơn 2.000
người tử vong do AIDS được báo cáo. Theo ước tính của các chuyên gia
nhờ điều trị ARV mà Việt Nam đã ngăn ngừa cho gần 150.000 người thoát
khỏi tử vong do AIDS trong giai đoạn 2001-2015.../.
Theo TTXVN