Hiệp định CPTPP có những yêu cầu về sở hữu
trí tuệ mà pháp luật quốc gia chưa có hoặc đã có nhưng quy định
khác. Trong đó, một số nghĩa vụ phải thực hiện ngay khi Hiệp định CPTPP
có hiệu lực và một số nghĩa vụ có thời gian chuyển tiếp từ ba đến 5 năm.
Các nội dung liên quan sở hữu
trí tuệ trong Luật số 42/2019/QH14 tập trung vào
năm nhóm vấn đề lớn, bao gồm: Cách thức nộp đơn đăng ký xác lập quyền sở
hữu công nghiệp; ngoại lệ về tính mới của sáng chế; hợp đồng chuyển
quyền sử dụng nhãn hiệu; các đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa
là chỉ dẫn địa lý; bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ.
Về cách thức nộp đơn đăng ký xác
lập quyền sở hữu công nghiệp, bên cạnh việc nộp đơn đăng ký trực tiếp
hoặc qua bưu điện bằng bản giấy, thì Luật số 42/2019/QH14 cho phép đơn
nộp dưới dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến.
Quy định sửa đổi
này nhằm thực thi Hiệp định CPTPP và phù hợp lộ trình xây dựng, phát
triển Chính phủ điện tử. Với nền tảng công nghệ thông tin và hệ thống
mạng internet được triển khai rộng khắp như hiện nay, việc triển khai
việc nộp đơn trực tuyến tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân không tốn
thời gian, chi phí đi lại và in ấn các loại giấy tờ.
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng của việc bảo hộ sáng chế là
tính mới. Luật số 42/2019/QH14 quy định việc mở rộng ngoại lệ về tính
mới, đó là: sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có
quyền đăng ký hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng
ký sáng chế được nộp tại Việt Nam trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bộc
lộ sáng chế.
Ông Lê Ngọc Lâm, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu
trí tuệ cho biết, so với
quy định cũ, việc tính thời hạn bộc lộ sáng chế trong các trường hợp
ngoại lệ tăng từ sáu tháng lên 12 tháng, giúp người nộp đơn sáng chế có
thêm thời gian để cân nhắc các lợi ích của đăng ký sáng chế và hoàn
thiện hồ sơ đăng ký sáng chế. Quy định này rất có lợi cho các nhà nghiên
cứu, bởi sau khi nghiên cứu thành công các công trình, họ thường vội
công bố trên các tạp chí quốc tế danh tiếng rồi mới đăng ký sáng chế.
Việc công bố có thể làm mất tính mới của sáng chế.
Luật số 42/2019/QH14 quy định bổ sung hành vi sử dụng nhãn hiệu của
bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là
hành vi sử dụng nhãn hiệu của chính chủ sở hữu nhãn hiệu.
Bên cạnh đó,
hợp đồng sử dụng nhãn hiệu không phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà
nước về quyền sở hữu công nghiệp. Điều này có nghĩa là, hợp đồng chuyển
quyền sử dụng nhãn hiệu được ký kết giữa hai bên đương nhiên có hiệu lực
và giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.
Trước đây, để hợp đồng sử dụng
nhãn hiệu có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba, bắt buộc hợp đồng phải
được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước. Quy định mới sẽ tiết kiệm
được thời gian, chi phí cho các bên và bảo đảm quyền xác lập, sử dụng
nhãn hiệu.
Liên quan chỉ dẫn địa lý, Luật số 42/2019/QH14 quy định bổ sung về
căn cứ phát sinh, xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý theo điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra, luật cũng cụ thể hơn các
đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý, như: Tên gọi,
chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa theo nhận thức của
người tiêu dùng có liên quan trên lãnh thổ Việt Nam; chỉ dẫn địa lý
trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đã được nộp theo đơn đăng ký có
ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý
đó được thực hiện thì có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại
của hàng hóa.
Ông Lưu Đức Thanh, Trưởng phòng chỉ dẫn địa lý (Cục Sở hữu
trí tuệ)
cho biết, quy định này bảo đảm cơ sở pháp lý để xử lý các đơn đăng ký
chỉ dẫn địa lý; xác định rõ đối tượng bảo hộ; làm rõ thẩm quyền trong
việc đánh giá tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam; có hướng xử lý
đối với đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý sử dụng ngôn ngữ khác ngữ hệ la-tinh.
Qua đó, quá trình áp dụng pháp luật được thống nhất, đẩy nhanh quá
trình thẩm định đơn, đáp ứng nhu cầu đăng ký chỉ dẫn địa lý ngày càng
tăng.
Để bảo vệ chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ khi có hành vi xâm phạm quyền, Luật số
42/2019/QH14 bổ sung một số nội dung: quyền yêu cầu tòa án buộc nguyên
đơn thanh toán chi phí thuê luật sư hoặc các chi phí khác trong vụ kiện
xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ nếu bị đơn được Tòa án kết luận là không thực hiện
hành vi xâm phạm quyền; quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại do việc
lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác; căn cứ xác
định theo các cách tính khác do chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ đưa ra trong việc
xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ; nghĩa vụ của
cơ quan hải quan trong việc cung cấp thông tin cho chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ
trong vòng 30 ngày kể từ ngày ra quyết định áp dụng biện pháp hành chính
để xử lý đối với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và hàng hóa sao chép
lậu.
Các quy định này góp phần xây dựng hệ thống thực thi quyền sở hữu
trí tuệ
hiệu quả, khuyến khích hoạt động sáng tạo đổi mới. Quá trình xét xử các
tranh chấp dân sự về quyền sở hữu
trí tuệ cũng sẽ có nhiều căn cứ hơn để xem xét
mức bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, tòa án phải cân nhắc kỹ lưỡng trước
khi đưa ra mức bồi thường thỏa đáng, thẩm phán phải nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ để đáp ứng yêu cầu xét xử. Các
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, mới tham gia thị trường phải
thận trọng trong sản xuất, kinh doanh, tránh xâm phạm quyền của người
khác, có thể dẫn đến nguy cơ phá sản do mức bồi thường thiệt hại lớn.
Các yêu cầu đặt ra trong Hiệp định CPTPP và các quy định trong Luật số
42/2019/QH14 là nhằm bảo đảm hệ thống sở hữu
trí tuệ minh bạch, hiện đại và cân
bằng lợi ích của chủ sở hữu tài sản trí tuệ và xã hội, tạo thuận lợi
trong quá trình xác lập, thực thi quyền sở hữu công nghiệp.
Các nghĩa vụ
có thời gian chuyển tiếp quy định trong Hiệp định CPTPP dự kiến sẽ được
đưa vào Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, trình Quốc hội vào
kỳ họp cuối năm 2021./.