Song song với xây dựng các chính sách hỗ trợ, cần chọn
ra sản phẩm thế mạnh cũng như tạo liên kết để xây dựng thương hiệu, qua
đó tăng khả năng cạnh tranh cũng giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt
Nam.
Hầu hết nông sản xuất khẩu ở dạng thô
Hiện
ngành nông nghiệp có 10 sản phẩm nông lâm thủy sản xuất khẩu chính;
trong đó có 8 sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD và có mặt
hầu hết các thị trường nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật
Bản. Tuy nhiên, 90% nông sản của Việt Nam vẫn xuất khẩu dưới dạng thô,
kim ngạch còn thấp do giá trị xuất khẩu thấp hơn các sản phẩm cùng loại
của nhiều nước khác.
Ông Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến
nông lâm thủy sản và nghề muối cho biết, dù nhiều sản phẩm đã được biết
đến rộng rãi ở thị trường trong và ngoài nước và đã được bảo hộ tên gọi
xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, nhưng vẫn còn hơn 80% lượng nông sản của nước
ta chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác. Đặc biệt,
nhiều sản phẩm được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu
nước ngoài. Đây là bất lợi lớn, khiến sức cạnh tranh của các loại nông
sản Việt trên thị trường còn yếu và chịu nhiều thiệt thòi.
Dẫn
chứng cụ thể, ông Lê Văn Bảnh chia sẻ, Hiệp hội Chè Việt Nam là đơn vị
được Chính phủ giao chủ trì triển khai Chương trình thương hiệu Quốc gia
Chè Việt Nam từ năm 2004, nhãn hiệu CheViet đã được đăng ký và bảo hộ
với 73 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, do không được triển khai
triệt để nên chương trình gần như bị bỏ ngỏ và sản phẩm chè hiện tại vẫn
xuất khẩu chỉ ở dạng thô, chưa có tên tuổi khiến chè Việt Nam bị lẫn
lộn hoặc phải mang tên của các hàng chè lớn nước ngoài.
Dù Việt
Nam đã trở thành một “cường quốc” về xuất khẩu nông sản, nhưng vấn đề
đặt ra là các sản phẩm lại xuất khẩu thô – nguyên liệu, chất lượng và
giá trị thấp và nhất là chưa có thương hiệu. Hiện nay, nhiều doanh
nghiệp đã chịu khó nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm mới, áp
dụng các chiến lược tiếp cận thị trường bài bản. Thay vì chỉ cung cấp
các nguyên liệu thô, nhiều doanh nghiệp đã từng bước đầu tư máy móc,
thiết bị hiện đại để sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao, có hàm
lượng giá trị gia tăng cao. Dù vậy, phát triển thương hiệu vẫn là một
thách thức lớn.
Bà Bùi Thị Thanh An, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến
Thương mại (Bộ Công Thương) cho rằng, hình ảnh giá rẻ - chất lượng thấp
gắn với Việt Nam trong một thời gian quá dài đã ảnh hưởng rất lớn đến nỗ
lực xuất khẩu của Việt Nam. Muốn thúc đẩy xuất khẩu, Việt Nam không
những phải tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác sản xuất nông nghiệp, mà
còn phải cho thế giới biết tới những điều tốt đẹp về thực phẩm Việt Nam.
Liên kết tạo thương hiệu mạnh
Những
năm gần đây, vấn đề xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu hàng
nông lâm thủy sản đã được các cơ quan trung ương, các bộ ngành, địa
phương và doanh nghiệp quan tâm, tiếp cận và triển khai. Một số địa
phương đã hình thành vùng chuyên canh, sản xuất tập trung lớn cho các
sản phẩm thế mạnh; dù vậy quy mô diện tích còn nhỏ lẻ, manh mún, sản
phẩm chưa đồng nhất, chưa thật sự có được vùng chuyên canh đúng nghĩa,
đồng thời yếu trong liên kết chuỗi giá trị, liên kết vùng, miền.
Ông
Lưu Đức Thanh, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết,
hiện nay việc đăng ký đối với nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận
cũng như chỉ dẫn địa lý đã được chú trọng. Tuy nhiên, hiệu quả từ việc
đăng ký này chưa lớn khi thực tế trên thị trường ít thấy các nhãn hiệu
mang tính tập thể này. Chỉ một số ít (chỉ dẫn địa lý) có sức lan tỏa như
nước mắm Phú Quốc, cà phê Buôn Ma Thuột, thanh long Bình Thuận...
Theo
ông Lưu Đức Thanh, nguyên nhân xuất phát từ việc quản lý chỉ dẫn địa lý
không đồng bộ, thống nhất khi mỗi tỉnh có một cách quản lý khác nhau
theo đặc thù địa phương. Do vậy, để bảo vệ chất lượng và danh tiếng cho
đặc sản của mình, các nhà sản xuất, kinh doanh tại địa phương nên cùng
tập hợp nhau lại trong một tổ chức tập thể (ví dụ như Hiệp hội) để tập
trung sức mạnh, thống nhất chiến lược, kế hoạch từng bước xây dựng
thương hiệu cho các đặc sản.
Về vấn đề này, bà Bùi Thị Thanh An
nhấn mạnh, những có gắng đơn lẻ của từng mặt hàng sẽ không tạo nên sức
mạnh chung. Ngoài ra, việc thiếu vắng một chiến lược tổng thể về xây
dựng và phát triển thương hiệu đang làm khách hàng và người tiêu dùng
nước ngoài chưa nhận thức đầy đủ và đánh giá đúng mức về chất lượng, giá
trị hàng hóa và năng lực cung cấp các mặt hàng nông sản, thực phẩm Việt
Nam.
Việc chưa có một chương trình tổng thể về xây dựng và phát
triển thương hiệu nông sản chủ lực, làm căn cứ định hướng để địa phương,
doanh nghiệp xác định mặt hàng, thị trường tập trung làm thương hiệu là
một khó khăn lớn hiện nay.
Theo ông Nguyễn Hồng Hải, Chủ tịch
HĐQT Công ty Giống cây trồng Lạng Sơn, nhà nước nên mạnh dạn đưa ra
chính sách hỗ trợ phát triển thương hiệu cho doanh nghiệp. Trước đây có
nhiều chính sách, nhưng không biết hỗ trợ cho doanh nghiệp hay người
nông dân. Thực tế, nếu phát triển thương hiệu cho doanh nghiệp thì sẽ có
lợi cho người dân sản xuất.
Trong khi đó, ông Đặng Hoàng Giang,
Phó Chủ tịch – Tổng thư ký Hiệp hội Điều Việt Nam cho rằng, quan trọng
nhất là nông sản nào có đầu ra tốt thì chúng ta nên tập trung xây dựng
thương hiệu cho nông sản đó. Bây giờ chúng ta phải chú ý đến chất lượng
hơn là số lượng. Như Bình Phước, có hơn 1.000 cơ sở chế biến hạt điều
lớn nhỏ, chúng ta cần phải kiểm soát đầu mối, kiểm soát sản xuất đảm bảo
chất lượng, cũng là đảm bảo thương hiệu. Nếu chúng ta cứ chú trọng sản
xuất số lượng, xuất khẩu sơ chế thì rất khó xây dựng thương hiệu nông
sản.
Cùng quan điểm trên, ông Nguyễn Hồng Hải cho rằng: Nên chọn
ra các sản phẩm có thế mạnh để tạo nên sản phẩm có thương hiệu quốc gia,
có tính cạnh tranh quốc tế. Còn đối với địa phương, cần chọn ra thế
mạnh của địa phương để phát triển và có thể cạnh tranh trong nước. Như
vậy, ở mỗi địa phương sẽ có rất nhiều sản phẩm có thể cạnh tranh trong
nước và quốc gia có sản phẩm cạnh tranh quốc tế.
Xuất phát từ
tình hình trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có kế hoạch trong
năm 2017 sẽ triển khai xây dựng “Chương trình phát triển thương hiệu
nông sản chủ lực đến năm 2020” nhằm xác định cụ thể các sản phẩm nông
sản chủ lực định hướng xây dựng thương hiệu, xây dựng chỉ dẫn địa lý,
nhãn mác.
Theo Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, thời
gian tới sẽ xây dựng cơ chế cụ thể; trong đó ưu tiên các chính sách tín
dụng, chính sách thúc đẩy đầu tư cho nông nghiệp, đặc biệt là các mặt
hàng nông sản có thế mạnh của từng địa phương và phục vụ xuất khẩu theo
hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã có
thể tiếp cận nhanh chóng, dễ dàng các nguồn hỗ trợ.
Vũ Tiến Lực (TTXVN)