90 năm qua, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, đội ngũ trí thức Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc của dân tộc ta. Trong quá trình đổi mới đất nước, đội ngũ trí thức tiếp tục đóng góp công sức, trí tuệ vào tham mưu hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách phát triển; tư vấn, phản biện và giám định xã hội; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, giáo dục đào tạo; bảo vệ tài nguyên - môi trường. Cùng với đó là hàng loạt dấu ấn - thành tựu trên các lĩnh vực văn hóa - văn nghệ, y tế, báo chí - xuất bản, ngoại giao - hội nhập quốc tế, an ninh - quốc phòng…
Trong những đóng góp của đội ngũ trí thức nói chung, có vai trò quan trọng của bộ phận trí thức khoa học và kỹ thuật. Nói đến đội ngũ này, không thể không nói đến vai trò “mái nhà chung” của các hội/tổ chức mà tiêu biểu là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) - tổ chức lớn nhất, tập hợp đông đảo nhất đội ngũ trí thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ Việt Nam hiện nay.
Ngay từ những ngày đầu thành lập(1), Liên hiệp Hội luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là Ban Bí thư Trung ương Đảng(2). Là một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ (KH-CN) người Việt Nam; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức thành viên, của đội ngũ trí thức KH-CN Việt Nam.
Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tiếp tục xác định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của Liên hiệp Hội; giao nhiệm vụ đề xuất, tham mưu với Đảng và Nhà nước những vấn đề lớn về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các chương trình, dự án, đề án lớn về phát triển KH-CN, giáo dục - đào tạo, kinh tế - xã hội…
Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW (do Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện năm 2020) đã nêu rõ những kết quả đạt được cũng như hạn chế, bất cập trong hoạt động của Liên hiệp Hội. Đó là:
Thứ nhất, Liên hiệp Hội đã từng bước khẳng định vai trò là một tổ chức chính trị - xã hội quan trọng trong toàn bộ hệ thống chính trị. Từ 15 hội thành viên khi mới thành lập (năm 1983), đến năm 2010, Liên hiệp Hội đã có 125 hội thành viên (gồm 55 liên hiệp hội địa phương và 70 hội, tổng hội ngành).
Nhà xuất bản Tri thức mỗi năm biên soạn - xuất bản hàng trăm đầu sách (với gần 400.000 bản in), trong đó hầu hết là những đầu sách thuộc “Tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới” và “Tủ sách Tri thức phổ thông”; Hội Khoa học kỹ thuật An toàn và Vệ sinh lao động Việt Nam đã biên soạn thành công “Từ điển ILO”; Tổng hội Y học Việt Nam biên soạn “Từ điển Bách khoa Y học”; Trong 10 năm qua, các Hội thành viên tổ chức gần 6 vạn hội thảo, tập huấn kiến thức về nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường và phổ biến pháp luật với trên 14 triệu lượt người tham gia... |
Sau 4 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, Liên hiệp Hội đã được thành lập ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Năm 2020, số hội ngành toàn quốc là 89 hội, số tổ chức khoa học và công nghệ tăng lên 530. Mối liên kết liên ngành, liên vùng, phối hợp giữa Trung ương và địa phương của các hội thành viên ngày càng được tăng cường. Năm 2020, Liên hiệp Hội đã tập hợp được trên 3,7 triệu hội viên (tăng 1,9 triệu so với năm 2010), trong đó có khoảng 2,2 triệu trí thức (tăng 1,4 triệu so với năm 2010). Nhiều hội thành viên, đặc biệt là các hội ngành toàn quốc đã thành lập và đưa vào hoạt động khá nề nếp một số loại hình tổ chức mới phù hợp (các viện nghiên cứu, trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ, trung tâm chăm sóc sức khỏe, trung tâm trợ giúp pháp lý, câu lạc bộ của trí thức...) để thực hiện công tác vận động, thu hút, động viên, khuyến khích trí thức tham gia xây dựng đất nước và phát triển địa phương.
Thứ hai, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội được triển khai thực hiện khá phổ biến ở Liên hiệp Hội hai cấp, góp phần quan trọng giúp Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương xem xét, quyết định đúng đắn các vấn đề quan trọng về KH-CN, giáo dục - đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức. Điển hình như: điều chỉnh tiến độ triển khai các nhà máy điện nguyên tử; điều chỉnh thiết kế nhà máy thủy điện Sơn La; xem xét kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng 6 đập trên sông Hồng để cải tạo giao thông thủy và phát điện...
Thứ ba, hoạt động truyền thông, phổ biến kiến thức, hướng dẫn áp dụng những tiến bộ KH-CN vào sản xuất của Liên hiệp Hội được thực hiện thường xuyên, góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, giảm nghèo bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Liên hiệp Hội thực hiện tốt vai trò thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận); tích cực phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tích cực hưởng ứng, chỉ đạo các hội thành viên, tổ chức KH-CN trực thuộc tham gia những cuộc vận động, phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ và Mặt trận phát động; tổ chức có chất lượng, hiệu quả nhiều diễn đàn khoa học chuyên nghiệp, qua đó khẳng định và phát huy vai trò của trí thức, nhà khoa học trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhiều vấn đề được xã hội quan tâm như: An toàn thực phẩm - trách nhiệm của toàn xã hội; Những vấn đề đặt ra trong đổi mới thể chế kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế theo các Hiệp định mà Việt Nam đã ký kết; Đánh giá kết quả thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016:
Đo lường từ sự hài lòng của người dân; Tự chủ giáo dục đại học - những vấn đề đặt ra cần giải quyết; Đổi mới, sáng tạo và quốc gia khởi nghiệp để đất nước phát triển: Từ nhận thức đến hành động...
Bên cạnh những kết quả đạt được, so với yêu cầu, nhiệm vụ và kỳ vọng của Đảng, Nhà nước, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra với Liên hiệp Hội:
Một là, mục tiêu xây dựng Liên hiệp Hội trở thành một tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh chưa đạt được; chưa phát huy tốt vai trò tập hợp và động viên đội ngũ trí thức tham gia phát triển đất nước. Các hội thành viên và tổ chức KH-CN trực thuộc tuy có phát triển về số lượng nhưng chất lượng và hiệu quả hoạt động chưa cao; nội dung và hình thức hoạt động thiếu chuyên nghiệp, chưa thực sự hấp dẫn trí thức trẻ, trí thức trong các doanh nghiệp và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài....
Hai là, các diễn đàn khoa học chuyên nghiệp tuy đã có sự đổi mới, phát triển, song chưa tạo được sự khác biệt so với hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo tư vấn, phản biện; còn nhiều vấn đề lớn được xã hội quan tâm nhưng chưa được tổ chức thành diễn đàn khoa học chuyên nghiệp để đội ngũ trí thức bày tỏ quan điểm và đóng góp ý kiến; việc tổ chức diễn đàn gắn với công tác tư tưởng của đội ngũ trí thức còn mờ nhạt...
Ba là, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội ở một số liên hiệp hội địa phương, hội thành viên còn yếu về chất lượng, thiếu tính thuyết phục nên hạn chế đến niềm tin từ phía các nhà lãnh đạo, quản lý.
Bốn là, một số hội ngành toàn quốc chưa phát huy được vai trò nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học kỹ thuật; thiếu sự chủ động kết nối và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước để giải quyết những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến lĩnh vực hoạt động chuyên môn. Nhiều dịch vụ công gắn với vai trò, trách nhiệm của các tổ chức hội xã hội - nghề nghiệp chưa được thực hiện tốt, chất lượng, hiệu quả chưa cao. Nhiều hội thành viên hạn chế về nguồn lực trong quá trình tiếp nhận và triển khai dịch vụ công…
Trong tình hình mới, những thách thức từ bối cảnh toàn cầu hóa khi chủ nghĩa dân tộc phát triển mạnh ở một số nơi và nhiều tranh cãi thương mại cấp quốc gia diễn ra trên thế giới; bên cạnh sự tiếp diễn của suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên là sự tăng tốc của biến đổi khí hậu, những vấn đề mới về an ninh, dịch bệnh… Việt Nam cũng đứng trước nhiều yêu cầu mới của phát triển, từ việc chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững đất nước tới việc ứng phó với các ảnh hưởng, tác động của tình hình thế giới.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức và khối liên minh công - nông - trí đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng luôn được khẳng định và không thay đổi; việc tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức đại diện cho trí thức, trong đó có Liên hiệp Hội để tập hợp, đoàn kết và tạo môi trường, điều kiện thuận lợi phát huy trí tuệ của trí thức tham gia tích cực công cuộc phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng phải là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng và Nhà nước cần có những điều chỉnh kịp thời, những quyết sách đột phá liên quan đến tổ chức bộ máy, cải cách thể chế, hoàn thiện hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của Liên hiệp Hội.
Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc trong toàn bộ hệ thống chính trị các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của Liên hiệp Hội trong giai đoạn mới; cùng với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Liên hiệp Hội và các hội thành viên; xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng và phát triển đảng viên trong các tổ chức của Liên hiệp Hội. Nghiêm túc thực hiện việc đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương của Đảng về đội ngũ trí thức và Liên hiệp Hội, đặc biệt cần chú trọng tổng kết thực tiễn, đề ra những chủ trương, chính sách mới trong vấn đề này.
Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nước cần khẩn trương thể chế hóa, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của Liên hiệp Hội. Xác định rõ, phân loại các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho Liên hiệp Hội và xây dựng cơ chế để Liên hiệp Hội được chủ động tham gia ý kiến góp ý về những vấn đề quan trọng; quy định cụ thể việc các cơ quan, ban, ngành chủ động đặt hàng, cơ chế tiếp nhận sử dụng những kết quả tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội; đưa ra kế hoạch, lộ trình và trách nhiệm chuyển giao thực hiện dịch vụ hành chính công cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp; xây dựng cơ chế giúp các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được tiếp cận thông tin và nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội...
Thời gian gần đây, Liên hiệp Hội và các hội thành viên chưa có nhiều đóng góp nổi bật trong việc giải quyết những vấn đề lớn, bức xúc của đất nước về phát triển KH-CN, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tăng trưởng kinh tế. |
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động để Liên hiệp Hội thực sự trở thành một tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh của trí thức KH-CN
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; chú trọng phát huy dân chủ, tôn trọng sự tự do sáng tạo; chú trọng tập hợp, đoàn kết và vận động trí thức KH-CN, phát huy tốt vai trò của đội ngũ trí thức KH-CN; tập trung hướng tới lực lượng trí thức trong các doanh nghiệp và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài để thường xuyên làm mới hệ thống chuyên gia, thường xuyên có những ý kiến mới, quan trọng trong tư vấn, phản biện và giám định xã hội.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện các diễn đàn khoa học chuyên nghiệp, tìm ra những hình thức mới, phù hợp để phát huy dân chủ, tạo môi trường, cơ hội cho trí thức phát biểu chính kiến của mình, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Liên hiệp Hội cần chủ động phối hợp với các cơ quan Đảng, Nhà nước để đưa diễn đàn khoa học chuyên nghiệp trở thành nơi hội tụ tiếng nói của trí thức, trực tiếp chuyển tải ý kiến, nguyện vọng của trí thức đến với Lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, xây dựng mạng lưới truyền thông và phổ biến kiến thức đa ngành, đa nghề, liên kết chặt chẽ các thành viên trong hệ thống; đổi mới nội dung, hình thức truyền thông và phổ biến kiến thức theo hướng cập nhật tiến bộ KH-CN; chủ động thực hiện nhiệm vụ quảng bá cho toàn thể xã hội về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức KH-CN, của Liên hiệp Hội và các tổ chức thành viên trong quá trình phát triển đất nước./.
TS. Phan Việt Phong - TS. Ngô Đình Sáng
Ban Tuyên giáo Trung ương
--------------------------------
(1) Được thành lập theo Quyết định số 121 BT ngày 29/7/1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(2) Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 11/4/1988 của Ban Bí thư về “Củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam”.