Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị Tổng Tư lệnh xuất chúng, người đã thấm
nhuần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, và với tư duy
sắc sảo, với bản lĩnh của người cầm quân, đã đưa ra quyết định quan
trọng, chuyển từ phương châm “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc,
tiến chắc”. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đi tới thắng lợi cuối cùng
cũng chính từ bước ngoặt quan trọng này. Tài thao lược quân sự của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã được cả thế giới biết đến và ngưỡng mộ
NHẬN NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, trong đó Điện
Biên Phủ là chiến dịch lớn nhất. Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa và
tầm vóc vượt xa các chiến dịch trước về nhiều mặt, càng khẳng định tài
thao lược xuất chúng của vị Tổng tư lệnh.
Cuối tháng 12/1953, Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt cứ điểm của
địch ở Tây Bắc. Ngày 1/1/1954, Bộ Chính trị chỉ định cơ quan lãnh đạo
chỉ huy chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm chỉ huy trưởng
kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ. Kế hoạch điều động tiếp lực
lên Tây Bắc được triển khai.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Đây sẽ là lần đầu bộ đội ta mở
một cuộc tiến công quy mô lớn vào một tập đoàn cứ điểm với một vạn quân.
Cán bộ, chiến sĩ ta đã được chuẩn bị đánh tập đoàn cứ điểm... Trận đánh
sắp tới sẽ là một thử thách lớn chưa từng có đối với ta trong chiến
tranh. Ta đã chọn chiến trường rừng núi là nơi có nhiều điều kiện thuận
lợi để tiêu diệt địch. Nhưng Điện Biên Phủ không hoàn toàn là rừng núi. Ở
đây có cánh đồng lớn nhất Tây Bắc. Rất nhiều cứ điểm nằm trên cánh
đồng. Bộ đội ta sẽ phải tiến hành nhiều trận đánh với quân cơ động có
máy bay, xe tăng, đại bác yểm trợ trên địa hình bằng phẳng giống như ở
đồng bằng...”(1).
Đến ngày 5/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng sở chỉ huy tiền
phương của Bộ Tổng tư lệnh lên đường ra mặt trận. Trước khi lên đường ra
trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Bác Hồ ở Khuổi Tát. Bác hỏi:
“Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có gì trở ngại không?”(2).
Đại tướng trả lời: “… Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng và
cấp thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị”(3). Bác động viên:
“Tổng tư lệnh ra mặt trận, “tướng quân tại ngoại”! Trao cho chú toàn
quyền quyết định. Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc
thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”(4). Vị tư lệnh chiến dịch
“cảm thấy trách nhiệm lần này rất nặng nề”(5).
THAY ĐỔI PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN - QUYẾT ĐỊNH KHÓ KHĂN NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI CHỈ HUY
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ và có lẽ trong suốt cuộc đời cầm quân
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quyết định thay đổi phương châm tác chiến
từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” được coi là
quyết định khó khăn nhất - như chính ông cũng từng thừa nhận. Quyết định
đó thể hiện tư duy quân sự sắc sảo, bản lĩnh của người cầm quân; nhưng
đồng thời cũng là biểu hiện của sự thấm nhuần tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh về “đánh chắc thắng”; thể hiện tính nhân văn của một vị tướng “dĩ
công vi thượng”, luôn biết đề cao vai trò của tập thể, hết sức tôn trọng
ý kiến của tập thể vì lợi ích chung.
Ngày 12/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một số cán bộ đã đến sở
chỉ huy mặt trận. Lúc này phía ta và cố vấn đã thống nhất dùng cách đánh
nhanh để tiêu diệt địch, bởi “đánh nhanh thắng nhanh, bộ đội đang còn
sung sức, sẽ đỡ tổn thất và không phải đối phó với khó khăn rất lớn về
đạn dược, lương thực cho hàng vạn chiến sĩ và dân công trong một cuộc
chiến đấu dài ngày”(6). Thời gian nổ súng dự định là ngày 20/1/1954.
Sau khi nghe báo cáo tình hình, vị chỉ huy trưởng “cảm thấy chủ
chương này không ổn, muốn nghe thêm tình hình”, bởi “bộ đội còn phải mất
một thời gian làm đường. Địch còn có điều kiện tăng quân. Ngay bây giờ
đánh nhanh thắng nhanh đã khó. Rồi đây hẳn lại càng khó”(7). Tuy vậy,
ông vẫn ân cần căn dặn mọi điều để cán bộ biết phương hướng khắc phục
khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ theo phương hướng kế hoạch đã phổ biến.
Còn ông xác định cần tiếp tục suy nghĩ để nắm chắc tình hình thực tế hơn
nữa và tìm thêm những yếu tố có thể dẫn đến giành thắng lợi bằng cách
đánh nhanh hay không.
Điều Đại tướng trăn trở không chỉ vì những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
dặn “chiến dịch này rất quan trọng, chỉ được đánh thắng, không chắc
thắng thì không đánh”, mà còn vì trách nhiệm trước xương máu của chiến
sĩ. “Trận đánh này ta không được phép thua. Phần lớn tinh hoa của bộ đội
chủ lực trong tám năm kháng chiến đều tập trung ở đây. Những vốn liếng
vô cùng quý giá, nhưng cũng thực ít ỏi. Từ năm 1950 bắt đầu mở chiến
dịch lớn tới mùa xuân này, vẫn là những đơn vị ấy, những con người ấy.
Tôi đã thuộc từng trung đoàn, từng tiểu đoàn, từng đại đội chủ công,
biết những cán bộ đại đội, trung đội, chiến sĩ đã lập công xuất sắc. Đã
thấy rõ mọi người lên đường lần này đều sẵn sàng hy sinh để giành chiến
thắng. Nhưng nhiệm vụ của chiến dịch không chỉ là giành chiến thắng, mà
còn phải giữ được những vốn quý cho cuộc chiến lâu dài...”(8). Nếu
chiến dịch không thắng, các đại đoàn chủ lực bị thương vong lớn thì tiền
đồ cuộc kháng chiến sẽ ra sao, vị thế của đoàn ngoại giao ta tại Geneva
sẽ thế nào!
Sau đó, vị chỉ huy trưởng đã có nhiều đêm thao thức, suy tính, cân
nhắc rất nhiều lần, nhưng “vẫn chỉ tìm thấy rất ít yếu tố thắng lợi”:
“Tôi căn dặn các phái viên đi nắm tình hình, thấy bất cứ điều gì đáng
chú ý đều phải báo cáo kịp thời. Mọi người đều phản ánh tinh thần chuẩn
bị chiến đấu rất cao của cán bộ, chiến sĩ. Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng
Tấn nói với tôi trong quá trình chiến đấu, sẽ phải đột phá liên tục ba
lần mới vào được trung tâm. Nhưng đây chỉ là sự tính toán công việc phải
làm. Đại đoàn trưởng 308 Vương Thừa Vũ, đảm nhiệm mũi thọc sâu, hoàn
toàn giữ im lặng. Sang ngày thứ chín, hai ngày trước khi nổ súng, đồng
chí Phạm Kiệt, Cục phó Cục Bảo vệ, theo dõi việc kéo pháo ở phía Tây, đề
nghị gặp tôi qua điện thoại. Anh Kiệt nhận xét: “Pháo của ta đều đặt
trên trận địa dã chiến, địa hình rất trống trải, nếu bị phản pháo hoặc
máy bay đánh phá sẽ khó tránh tổn thất. Một số pháo vẫn chưa kéo được
tới trận địa”(9).
Sau khi lùi thời gian mở màn chiến dịch đến ngày 25/1/1954, rồi lùi
thêm một ngày đến 26/1 với lý do khó khăn trong việc kéo pháo vào, chưa
đảm bảo sức khoẻ…, sáng ngày 26/1, Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên
Giáp - đã đưa ra quyết định lịch sử của mình: tạm hoãn cuộc tiến công,
kéo pháo ra, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm
“Đánh chắc, tiến chắc”. Trải qua vài giờ trao đổi, với tinh thần đoàn
kết và ý thức trách nhiệm cao, cuối cùng tập thể Đảng ủy cũng tán thành
với sự thay đổi này và nhất trí cho rằng, thay đổi phương châm tác chiến
là một quyết tâm rất lớn, là thể hiện cụ thể sự quán triệt tư tưởng chỉ
đạo “đánh chắc thắng” của Trung ương.
Có thể thấy, những gì đã diễn
ra ở Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa cho thấy, hai yếu tố
khiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp thành công trong việc cùng tập thể đi tới
sự đồng thuận về cách đánh chiến dịch trước hết là trách nhiệm chính
trị trước Đảng và nhân dân, trước xương máu của chiến sĩ; cùng với đó là
phong cách sâu sát thực tế, dùng thực tế mà thuyết phục tập thể tiếp
nhận yêu cầu cao nhất, đó là bảo đảm “đánh chắc thắng”.
Việc thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang
“Đánh chắc, tiến chắc” được coi là sự kiện kịch tính nhất trong lịch sử
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, điều mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp
gọi là “quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình”. Và
chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đi tới thắng lợi cuối cùng cũng chính
từ bước ngoặt quan trọng này.
Lần đầu tiên, lực lượng pháo binh được huy động với mức cao nhất, gồm
Trung đoàn 45 lựu pháo 105 ly, Trung đoàn 675 sơn pháo 75 ly (thuộc Đại
đoàn công pháo 351) và các tiểu đoàn pháo trong biên chế của các đại
đoàn, trung đoàn chủ lực tham gia chiến dịch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
"ĐÁNH CHẮC" VÀ CHIẾN THẮNG
Triển khai kế hoạch “đánh chắc, tiến chắc”, với lực lượng dân công
trên 260.000 người, bằng đủ loại phương tiện chuyên chở và quyết tâm cao
hơn núi, ta đã khắc phục được khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua
được, đảm bảo cung cấp đủ vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men cho
50.000 bộ đội và hàng vạn dân công tại mặt trận, mở hàng chục km đường
để đưa pháo vào tận trận địa.
Bước vào trận chiến, với ba đợt tiến công, bộ đội ta đã phá tan tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt, làm bị thương và bắt sống toàn bộ hơn
16.000 quân địch đồn trú tại đây, đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất
của thực dân Pháp, đánh sụp ý chí tiếp tục chiến tranh đối phương, buộc
Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Geneve ngày 21/7/1954,
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Đông Dương.
Trải qua hơn 100 ngày ở mặt trận Điện Biên Phủ, cùng với toàn quân
lập nên chiến công lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp không những đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trước toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân, mà còn để lại cho cán bộ và chiến sĩ nhiều
thế hệ mai sau những bài học sâu sắc về tư duy quân sự, ý chí tiến công
và phong cách người làm tướng, trong đó có việc xử lý khéo léo, kiên
quyết, chính xác mối quan hệ của người đứng đầu chiến dịch với tập thể
lãnh đạo mặt trận để lựa chọn cách đánh hiệu quả nhất cho Chiến dịch
Điện Biên Phủ./.
MINH DUYÊN (TTXVN)
_________________
(1) (8) (9) Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Nxb. QĐND, H, 2010, tr.913-914, 914, 922.
(2) (3) (4) (5) (6) (7) Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại, Nxb. QĐND, H, 2004, tr.291, 291, 291, 291, 298, 299.