Thứ Hai, 14/10/2024
Nghiệp vụ công tác tuyên giáo
Chủ Nhật, 10/11/2013 11:0'(GMT+7)

Thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Campuchia đáp ứng yêu cầu tình hình mới


                                                                        
Có thể nói quan hệ Việt Nam - Campuchia là quan hệ đặc biệt. Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và sau này là lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, đáp ứng lời kêu gọi của các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia, Việt Nam đã ba lần gửi quân tình nguyện sang giúp nước bạn.
Lần thứ nhất là kề vai sát cánh cùng nhân dân Campuchia chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Vào nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam, Campuchia và Lào lần lượt bị thực dân Pháp xâm chiếm, biến thành các xứ bảo hộ và thuộc địa, lập nên cái gọi là “Đông Dương thuộc Pháp”. Cuộc sống nô lệ của người dân mất nước đã sớm gắn bó những người cùng cảnh ngộ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Ngay từ những ngày đầu, những người yêu nước Việt Nam và Campuchia đã đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong đấu tranh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia ngày càng phát triển mạnh mẽ. Lòng yêu nước và tinh thần  chiến  đấu  dũng cảm của nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia đã được phát huy cao độ, trở thành một cao trào cách mạng rộng lớn. Nhằm tăng cường sức  mạnh  đoàn kết và hỗ trợ cho lực lượng cách mạnh Campuchia, lần đầu  tiên  các  chiến  sĩ  quân tình nguyện Việt Nam đã sang Campuchia cùng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh cùng nhân dân nước bạn tổ chức kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 là cơ sở pháp lý quốc tế cao nhất xóa bỏ ách thống trị của thực dân Pháp; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào được thế giới công nhận. Đó là thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ đoàn kết và liên minh chiến đấu đặc biệt giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào.
Lần thứ hai là cùng nhân dân Campuchia chiến đấu  chống  lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Sau khi thực dân Pháp rút đi, đế  quốc  Mỹ lại trực tiếp can thiệp vũ trang xâm lược Việt Nam, Campuchia và Lào. Một lần nữa nhân dân ba nước lại kề vai sát cánh bên nhau để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hội nghị nhân dân ba nước Việt Nam-Campuchia-Lào được tổ chức vào tháng 3-1965 tại Phnom Pênh một lần nữa khẳng định tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước. Trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù mạnh nhất thế giới, hai nước Việt Nam và Campuchia đã dành cho nhau sự giúp đỡ quý báu, chí tình chí nghĩa. Một lần nữa Việt Nam đưa quân trở lại chiến trường Campuchia, phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chống lại những cuộc hành quân xâm lược của quân đội Mỹ và tay sai, mà đỉnh cao thể hiện tình đoàn kết chiến đấu vĩ đại của nhân dân hai nước là sự phối hợp hành động trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975.
Lần thứ ba là phối hợp cùng quân và dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Tiếng súng chống Mỹ vừa chấm dứt, nhân dân hai nước chưa một ngày được hưởng niềm vui hòa bình thì tập đoàn phản động Pôn Pốt núp dưới chiêu bài “Campuchia dân chủ” đã thi hành chính sách diệt chủng đối với nhân dân Campuchia, đồng thời phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia trước nguy cơ dân tộc bị diệt chủng, lần thứ ba các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam lại có mặt kịp thời, cùng với các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chiến đấu chống lại chế độ diệt chủng. Ngày 7-1-1979, chế độ diệt chủng Pôn Pốt bị lật đổ, Việt Nam tiếp tục kề vai sát cánh cùng nhân dân Campuchia trong công cuộc hồi sinh đất nước từ con số không. Đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để đối phó với bao vây cấm vận, phối hợp với nhau để đi đến một giải pháp chính trị toàn diện, công bằng cho vấn đề Campuchia, bảo đảm thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia cũng như độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Campuchia.
Sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 và cuộc Tổng tuyển cử năm 1993, Campuchia đi vào thể chế chính trị đa đảng, quan hệ hai nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Với phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”, trong những năm qua, quan hệ Việt Nam - Campuchia đã không ngừng được củng cố và phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực, mang lại hiệu quả thiết thực cho nhân dân hai nước.
Về chính trị, hai bên tiếp tục duy trì truyền thống trao đổi các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội cũng như giữa các bộ, ngành, địa phương và giao lưu nhân dân. Qua các chuyến thăm, lãnh đạo cấp cao hai nước đều khẳng định quyết tâm cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống, hợp tác tốt đẹp giữa hai nước và coi đây là nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Chuyến thăm Việt Nam của Quốc vương Norodom Sihamoni tháng 6-2010 cũng như chuyến thăm Campuchia của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 8-2010 và đặc biệt chuyến thăm hữu nghị Nhà nước Campuchia của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ ngày 6 đến 8-12-2011) có ý nghĩa to lớn, đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới, thắt chặt quan hệ láng giềng tốt đẹp, tình đoàn kết, hữu nghị  và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trong dịp này, Thái Thượng hoàng Norodom Shihanouk đã nói: “Campuchia và Việt Nam là hai nước không thể tách rời, mối quan hệ quý báu giữa hai nước cần được phát huy trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước”.
Hợp tác chặt chẽ giữa hai nước được thực hiện thông qua các cơ chế như: Uỷ ban Hỗn hợp về Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật; Hội nghị Hợp tác Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia; Hội nghị Xúc tiến Đầu tư được tổ chức hàng năm..., đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, một số tỉnh, thành phố của hai nước tuy không có chung biên giới, nhưng cũng tích cực thúc đẩy quan hệ kết nghĩa, ký các thỏa thuận hợp tác, điển hình như các cặp quan hệ TP. Hồ Chí Minh - Phnom Pênh, Hải Phòng - Sihanouk Ville và gần đây có thêm nhiều tỉnh, thành phố của hai nước đang đi theo hướng hợp tác tích cực này.
Quan hệ giữa hai Quốc hội, Mặt trận, Hội phụ nữ, tổ chức Thanh niên, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị... cũng ngày càng được tăng cường với nhiều nội dung hoạt động thiết thực; góp phần vào việc nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, qua đó góp sức vào việc giữ gìn, vun đắp cho quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Giao lưu nhân dân, nhất là ngành du lịch giữa hai nước ngày càng phát triển. Năm 2011, Việt Nam trở thành nước đứng đầu về lượng du khách đến Campuchia với số lượng khoảng 600.000 lượt người.
Trong sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia có sự đóng góp khiêm tốn nhưng tích cực của Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Hai nước Việt Nam - Campuchia thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 24-6-1967, thì đến năm 1973 Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia được thành lập, nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa hai dân tộc và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, hỗ trợ cho các hoạt động chính thức của Nhà nước. Từ đó đến nay, với nhiều hoạt động thiết thực và có hiệu quả, Hội đã có vị trí, vai trò trong mối quan hệ hai nước, được lãnh đạo hai nước luôn quan tâm và rất coi trọng, luôn xứng đáng là một trong những đầu tàu thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
 Về kinh tế, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong tình hình mới, giúp cho quan hệ hai nước đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực để tạo điều kiện thuận lợi tăng cường mối quan hệ hữu nghị. Việt Nam và Campuchia là hai nước đang phát triển, nền kinh tế còn nhiều khó khăn, nhu cầu phát triển và tiêu thụ rất cao. Xuất phát từ tầm quan trọng của quan hệ hợp tác kinh tế, trong các thông cáo chung nhân các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước, hai bên đều đề cập tầm quan trọng của việc thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa hai nước.
Hai nước đã xác định những cơ chế hợp tác mới, phù hợp với sự phát triển của tình hình khu vực và thế giới để tăng cường trao đổi hợp tác kinh tế, thương mại, theo đó tháng 4-1994 Việt Nam và Campuchia ký Hiệp định thành lập Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật Việt Nam-Campuchia. Uỷ ban này do các Bộ trưởng Ngoại giao mỗi nước làm Chủ tịch Phân ban của nước mình. Kể từ ngày thành lập, Uỷ ban đã tiến hành 12 kỳ họp và đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở những hiệp định này, trong thời gian qua hai bên đã triển khai nhiều mặt hợp tác có hiệu quả, đặc biệt là về lĩnh vực đào tạo và thương mại. Kim ngạch buôn bán hai chiều tăng hàng năm, hợp tác kinh tế, đầu tư giữa hai nước cũng đã phát triển nhanh chóng. Năm 1997-1999, kim ngạch thương mại hai chiều mới chỉ đạt khoảng 130-150 triệu USD/năm, nhưng từ năm 2005, kim ngạch thương mại hai nước tăng trung bình khoảng 30-40%/năm. Cụ thể là năm 2007 đạt hơn 1,2 tỷ USD, năm 2008 đạt 1,6 tỷ USD, năm 2009 đạt 1,33 tỷ USD, năm 2010 đạt 1,8 tỷ USD, năm 2011 đạt 2,8 tỷ USD. Hai nước phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều đạt 5 tỷ USD vào năm 2015. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 100 dự án được cấp phép đầu tư tại Campuchia với tổng số vốn trên 2,2 tỷ USD, tập trung trên các lĩnh vực viễn thông, ngân hàng, năng lượng, trồng cây cao su, chế biến nông sản. Để tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hoá, hai nước đã mở 8 cặp cửa khẩu quốc gia và quốc tế.
Tại các kỳ họp Ủy ban hỗn hợp, Campuchia quan tâm đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực là lĩnh vực Việt Nam có khả năng và Campuchia rất  có  nhu cầu.  Mỗi năm Việt Nam cung cấp trên 100 học  bổng  cho  sinh  viên Campuchia và hàng chục suất đào tạo ngắn hạn khác cho nhiều ngành của Campuchia. Đây là hình thức viện trợ không hoàn lại Việt Nam dành cho Campuchia.
Các lĩnh vực như hợp tác năng lượng điện, hợp tác về y tế đang được thực hiện có hiệu quả. Campuchia có tiềm năng thuỷ điện lớn nhưng chưa khai thác được. Việt Nam có đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề có khả năng thực hiện những công trình thuỷ điện lớn ở Campuchia. Hai bên đã ký hiệp định hợp tác năng lượng  điện, theo đó Việt Nam bán điện cho Campuchia và hiện đang triển khai theo các hợp đồng đã ký.
Ngoài ra, Việt Nam và Campuchia cũng đã ngày càng hợp tác, gắn bó và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn hợp tác khu vực như hợp tác ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV), Hợp tác bốn nước Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECs), Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ASEM, Liên hợp quốc (UN)...
Tóm lại, quan hệ hợp tác kinh tế hai nước thời gian qua có nhiều tiến bộ, đi vào chiều sâu và có hiệu quả. Hai nước đã ký các Hiệp định hợp tác trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật. Kết quả thực hiện trên một số lĩnh vực đã góp phần tích cực vào việc tăng cường quan hệ giữa hai nước.
Tuy nhiên, quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình, chưa thật sự có khả năng giúp giải quyết những vấn đề to lớn trong việc xây dựng và phát triển kinh tế của mỗi nước. Những hạn chế trong việc thực hiện các thoả thuận có thể có những nguyên nhân như tiềm lực kinh tế hai nước còn non yếu, trình độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Một nguyên nhân khác không kém phần quyết định là sự hợp tác hai bên chưa dựa trên sự bình đẳng, vẫn còn mang tính chất giúp đỡ, hỗ trợ. Đây là vấn đề rất khó trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế phát triển. 
Về biên giới, cùng với sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ chung giữa hai nước, các cơ quan, lực lượng chức năng và các địa phương biên giới Việt Nam và Campuchia đã  và  đang  tích  cực  phối hợp chặt chẽ triển khai công tác phân  giới  cắm  mốc  biên  giới trên bộ để sớm hoàn thành công tác này theo tinh thần chỉ  đạo  của  lãnh  đạo  cấp cao hai nước. Việc Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Sen cùng dự Lễ khánh thành cấp nhà nước cột mốc số 314 - cột mốc cuối cùng trên đường biên giới trên bộ  (thuộc tỉnh Kiên Giang của Việt Nam và tỉnh Kam Pốt của Campuchia) vào đúng ngày  kỷ niệm 45 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Campuchia (24-6-2012) thể hiện quyết tâm cao của lãnh đạo và lòng mong muốn của nhân dân hai nước trong việc xây dựng đường biên giới Việt Nam - Campuchia thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững.
 Về kiều dân, là hai nước láng giềng gần gũi, sự đi lại rất dễ dàng nên việc thông thương qua lại của nhân dân nước này sang nước kia là tất yếu. Việt kiều đã ở Campuchia từ rất lâu đời, đông đảo nhất kể từ khi thực dân Pháp đô hộ Đông Dương. Pháp đưa người Việt Nam vào làm việc tại các công sở, nhà máy, xí nghiệp, nông trường... Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX, số lượng Việt kiều lên đến trên 50 vạn người. Trong thời kỳ chống Mỹ, nhiều người Việt Nam sang Campuchia lánh nạn rồi ở lại. Ngày nay, người dân Việt Nam vẫn tiếp tục sang Campuchia làm nhiều nghề để kiếm sống, chủ yếu là làm ruộng, đánh cá và buôn bán nhỏ lẻ, thu nhập thấp và đời sống khó khăn. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Việt kiều có nhiều đóng góp vào sự nghiệp chung của nhân dân 2 nước nói chung và của Campuchia nói riêng. Việt kiều cũng có đóng góp đáng kể vào nền kinh tế của Campuchia.      
Tuy nhiên, ở Campuchia vấn đề Việt kiều thường bị một số phe phái Campuchia triệt để lợi dụng phục vụ cho cuộc tranh giành quyền lực. Các lực lượng dân tộc cực đoan thường thổi phồng nguy cơ đồng hoá, thực dân hoá của Việt Nam, kích  động  chia rẽ hằn thù dân tộc. Do vậy, Việt kiều ở Campuchia luôn sống trong tình trạng không ổn định và không được yên tâm làm ăn lâu dài. Trong các chuyến thăm hữu nghị chính thức của lãnh đạo cấp cao hai nước, nội dung về vấn đề kiều dân cũng được đề cập tới. Hai nước vẫn dành cho kiều dân của nhau nhiều thuận lợi nhằm ổn định cuộc sống, tạo điều kiện bình đẳng cho họ tham gia đóng góp nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước nơi họ sinh sống.
Những kết quả hợp tác nêu trên đã nâng quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia lên một tầm cao mới, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy và phát triển quan hệ hữu nghị hai nước trong thời gian tới.  Mặc  dù hoàn cảnh quốc tế  đang  có  những biến đổi tác động đến tình hình khu vực  và  tình  hình nội bộ Campuchia cũng có những nét phức tạp sau cuộc bầu cử tháng 8-2013, nhưng phương hướng cơ bản cho quan hệ Việt Nam - Campuchia đã được lãnh đạo hai nước thoả thuận là tiếp tục duy trì quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống và hợp tác láng giềng thân thiện. Thông cáo chung năm 1992 nêu rõ: Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa quan hệ  truyền thống vào giai đoạn phát triển mới nhằm xây dựng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác láng giềng thân thiệngiữa hai nước trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ mỗi nước, không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước bằng con đường hoà bình, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình.
Lịch sử quan hệ hai nước Việt Nam - Campuchia đã trải qua nhiều thăng trầm với đường hướng chính là hữu nghị, đoàn kết, song cũng có những  thời  điểm  đen  tối như thời kỳ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Tuy vậy, hai bên luôn duy trì và thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển không ngừng. Lịch sử cũng minh chứng rằng: mỗi khi vận mệnh của hai nước bị đe doạ thì hai nước lại liên kết với nhau để tồn tại và chiến thắng, vươn lên trở thành những quốc gia độc lập có chủ quyền, có quan hệ quốc tế ngày càng rộng rãi và uy tín quốc tế được nâng cao.    
Ngày nay quan hệ Việt Nam - Campuchia đã có những thay đổi về chất để đáp ứng yêu cầu duy trì và củng cố quan hệ hai nước trong tình hình mới. Trong những biến chuyển cơ bản đó, vấn đề hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, là chất keo gắn kết quan hệ hai nước Việt Nam và Campuchia.
Với lịch sử giàu truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau vô tư, trong sáng có bề dày lịch sử, quan hệ hai nước sẽ có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tầm cao mới. Điều thuận lợi cơ bản là nhân dân hai nước trải qua thăng trầm của lịch sử đã kề vai sát cánh bên nhau trên tinh thần tin cậy. Lãnh đạo cấp cao hai nước khẳng định quyết tâm tiếp tục cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Campuchia phát triển nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân hai nước. Sự trao đổi thường xuyên các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước đã tạo tiền đề và đường lối đúng đắn cho mối quan hệ giữa các cấp, các ngành, địa phương và nhân dân hai nước. Các cơ chế hợp tác đa dạng góp phần đưa quan hệ hữu nghị giữa hai nước phát triển theo hướng tích cực, hiệu quả, phù hợp với lợi ích của hai nước. Chính vì lẽ đó, hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước đang phát triển thuận lợi. Những chính sách ưu đãi về thương mại, đầu tư đã hỗ trợ mạnh mẽ mối quan hệ buôn bán và đầu tư giữa hai nước. Các dự án cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông, hệ thống chợ biên giới... đang được triển khai sẽ là nền tảng quan trọng cho việc phát triển kinh tế vùng biên giới nói riêng và tăng cường hợp tác về kinh tế giữa hai nước nói chung. Nền văn hóa đặc sắc của hai nước đã là động lực mạnh mẽ cho giao lưu giữa nhân dân quốc gia trong thời gian tới.
Trên cơ sở những thuận lợi cơ bản đó và với quyết tâm của lãnh đạo cấp cao, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương và nhân dân hai nước, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng không một thế lực nào có thể ngăn cản nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia cùng tiến bước trên con đường hòa bình và hữu nghị. Nhất định chúng ta sẽ phát huy mối quan hệ láng giềng truyền thống tốt đẹp, hợp tác toàn diện, bền vững dài lâu giữa Việt Nam - Campuchia và nâng lên tầm cao mới. Nhân dân hai nước sẽ được hưởng những lợi ích thiết thực từ thành quả đó, sẽ đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác  phát triển trong khu vực và trên thế giới./.

 Vũ Mão - Nguyễn Văn Chiến

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất