NHẬN DIỆN CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM XÃ HỘI ĐẶC THÙ - NGƯỜI CAO TUỔI
Tùy
theo các yêu cầu nghiên cứu, có thể có nhiều cách phân nhóm dân số.
Theo độ tuổi, có thể phân thành 3 nhóm dân số, trong đó, nhóm trẻ em, từ
0 đến 14 tuổi; nhóm trong độ tuổi lao động, từ 15 đến 60 tuổi (hiện nay
ở Việt Nam đang được kéo dài tới 62 tuổi) và nhóm người cao tuổi, từ
trên 60 tuổi. Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA, 2010), thời kỳ “dân
số vàng” của một quốc gia là khi có ít nhất hai người trong độ tuổi lao
động mới có một người phụ thuộc (dưới 15 tuổi và trên 60 tuổi). Việt Nam
bước vào thời kỳ “dân số vàng” bắt đầu từ năm 2007 (tỷ lệ người trong
độ tuổi lao động chiếm 67,31%). Cũng theo UNFPA, dân số một nước sẽ bước
vào giai đoạn “bắt đầu già” khi người cao tuổi chiếm 10% tổng số dân và
giai đoạn “già” khi người cao tuổi chiếm 20% tổng số dân(1).
Việt
Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế
giới. Theo cơ sở dữ liệu dân cư do Bộ Công an cung cấp, đến ngày
9/2/2023, cả nước có 16.179.824 công dân từ 60 tuổi trở lên, chiếm gần
17% số dân, trong đó từ 60 đến dưới 70 tuổi là 9.417.924 người, từ 70
đến dưới 80 tuổi là 4.189.640 người, từ 80 đến dưới 90 tuổi là 1.907.991
người, từ 90 đến dưới 100 tuổi là 623.221 người, từ 100 tuổi trở lên là
41.048 người(2). Dự báo, đến năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào
thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”. Những
người từ 60 tuổi trở lên dự báo đến năm 2050 sẽ tăng lên hơn 25%. Nhóm
người cao tuổi chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong cơ cấu dân số đặt ra yêu
cầu nghiên cứu, nhận biết một cách toàn diện các đặc điểm của nhóm xã
hội này, thấy rõ các vấn đề, thách thức đặt ra cũng như tiềm năng có thể
khai thác, phát huy, từ đó, có các phản ứng chính sách chủ động, linh
hoạt phù hợp.
Trước hết, trên phương diện đạo đức truyền thống cũng như xét đến những đóng góp cho gia đình và xã hội, người cao tuổi là những người đáng kính trọng, là “vốn quý” của xã hội.
Ở phạm vi gia đình, người cao tuổi là những người đã trực tiếp gây dựng
nên gia đình, nuôi dạy con cháu đến lúc trưởng thành. Đối với xã hội,
mỗi người cao tuổi tuy ở mỗi vị trí công việc khác nhau nhưng bằng lao
động của mình đều đã đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Đến lúc hết tuổi lao động, họ xứng đáng được nghỉ ngơi, vui chơi
bên người thân, con cháu trong giai đoạn cuối cuộc đời. Trong mỗi gia
đình, người cao tuổi luôn là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho con
cháu. Họ không chỉ nuôi dạy, truyền đạt những kinh nghiệm sống quý báu
mà còn là người giữ gìn gia phong, nét đẹp truyền thống mà tổ tiên để
lại. Như vậy, người cao tuổi nước ta thực sự là vốn quý của dân tộc, là
lực lượng quan trọng của đất nước, là rường cột của gia đình và xã hội.
Vì vậy, mỗi người, mỗi gia đình và xã hội cần có thái độ tôn trọng đúng
mức đối với người cao tuổi, xác định chăm sóc, giúp đỡ người cao tuổi là
nghĩa vụ, là trách nhiệm theo đúng truyền thống đền ơn đáp nghĩa của
dân tộc.
Người cao tuổi là nhóm xã hội yếu thế về sức khỏe và thu nhập.
Đây là đặc điểm dễ nhận biết của nhóm người cao tuổi. Những kết quả
phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống làm cho tuổi thọ trung
bình của người Việt Nam ngày càng tăng. Tuy nhiên, chất lượng sống của
người cao tuổi còn nhiều hạn chế. Người cao tuổi đang phải chịu nhiều
bệnh tật phối hợp trong giai đoạn cuối cuộc đời. Trung bình mỗi người
sau 60 tuổi mắc từ 3 đến 4 bệnh và sau 80 tuổi mắc tới 7 bệnh. Các bệnh
thường gặp ở người cao tuổi là: mạch vành, tăng huyết áp, đột quỵ, đái
tháo đường, ung thư, phổi tắc nghẽn mãn tính, thoái hóa khớp, loãng
xương, suy giảm trí tuệ… Hầu hết những bệnh này đều phải điều trị suốt
đời, thậm chí nhiều bệnh cần phải được chăm sóc đặc biệt. Sức khỏe suy
giảm, gánh nặng bệnh tật và chậm thích nghi với các tiện ích mới của đời
sống là đặc điểm chung của người cao tuổi. Ước tính, khoảng 28% người
cao tuổi cần trợ giúp trong các hoạt động cơ bản như vệ sinh cá nhân, di
chuyển, ăn uống…; 90% số người cao tuổi cần trợ giúp sử dụng điện
thoại, mua bán, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ quần áo, sử dụng
phương tiện giao thông…
Bệnh
tật làm cho chi phí y tế và gánh nặng chăm sóc cho người cao tuổi cao
hơn nhiều lần người trẻ, trong khi thu nhập trung bình của người cao
tuổi rất thấp và không ổn định. Theo một nghiên cứu của Tổng cục Thống
kê và Quỹ dân số Liên hợp quốc, nguồn thu nhập chính của người cao tuổi ở
Việt Nam (từ 60 tuổi trở lên) chủ yếu đến từ hỗ trợ của con cái, chiếm
khoảng 38%. Trong khi đó, các nguồn thu nhập mà người cao tuổi có được
từ lương hưu chỉ khoảng 15% và từ nguồn trợ cấp xã hội khoảng 10%(3).
Như vậy, phần lớn người cao tuổi không lương hưu, không bảo hiểm y tế,
phụ thuộc tài chính hoàn toàn vào con cái hay trợ giúp xã hội.
Bệnh
tật gắn liền với người cao tuổi, tuy nhiên, hiện khả năng cung cấp dịch
vụ y tế cho người cao tuổi còn hạn chế, còn thiếu các cơ sở y tế, đặc
biệt là các cơ sở y tế chuyên sâu (bệnh viện, trung tâm y tế, trạm y
tế…) cho người cao tuổi. Nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi (bác sĩ,
điều dưỡng lão khoa, người chăm sóc…) cũng còn thiếu hụt, trong khi số
lượng người cao tuổi cần chăm sóc y tế, chăm sóc sức khỏe chuyên biệt
ngày càng lớn.
Tuy sức khỏe đã suy giảm cộng với gánh nặng bệnh tật nhưng người cao tuổi vẫn là nguồn lực quan trọng trong gia đình và xã hội, cần được khai thác, phát huy.
Dù đã hết tuổi lao động nhưng nhiều người cao tuổi vẫn đang trực tiếp
lao động, sản xuất, phát triển kinh tế. Không ít người cao tuổi là giảng
viên, cán bộ nghiên cứu, chuyên gia trong các lĩnh vực. Đây là một
nguồn lực rất quan trọng và không thể thiếu. Họ là người có trình độ,
kiến thức, kỹ năng chuyên môn và bề dày kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, luôn có tinh thần cống hiến, góp sức hết mình cho sự phát
triển của đất nước. Tiếp tục lao động sản xuất, cống hiến cho gia đình
và xã hội không chỉ là tiềm năng mà còn là nguyện vọng chính đáng của
người cao tuổi. Nếu vẫn được tham gia lực lượng lao động một cách phù
hợp với lứa tuổi và sức khỏe, người cao tuổi sẽ nâng cao được tính độc
lập, giảm phụ thuộc kinh tế vào con cháu. Theo số liệu thống kê, cả nước
hiện có hơn 6,5 triệu người cao tuổi đang trực tiếp tham gia lao động,
sản xuất, trong đó có hơn 300 nghìn người cao tuổi làm kinh tế giỏi do
các cơ quan chức năng và địa phương chứng nhận; người cao tuổi đóng góp
hơn 11 triệu ngày công, gần 3.500 tỷ đồng, hiến 25 triệu m2 đất
để xây dựng đường giao thông, kênh mương, nhà văn hóa, trường học, cơ
sở y tế... trong phong trào xây dựng nông thôn mới; 733.846 người cao
tuổi tham gia công tác đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, tổ
hòa giải ở cơ sở; trên 1.100.000 người cao tuổi tham gia phòng, chống
tội phạm, trật tự, an ninh ở địa bàn, khu dân cư. Hơn 95 nghìn người cao
tuổi làm chủ trang trại, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;... Ở cơ
sở, người cao tuổi phối hợp giải quyết có hiệu quả hàng chục nghìn vụ
mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân. Cả nước có trên 77.000 câu
lạc bộ của người cao tuổi ở cơ sở với nhiều loại hình hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục, thể thao, thu hút trên 2,5 triệu người cao tuổi tham
gia(4).
Không
chỉ là những người lao động cần cù, sáng tạo, người cao tuổi còn là
những tấm gương sáng trong gia đình và xã hội, là hạt nhân đoàn kết gây
dựng nên các phong trào ở cơ sở, góp phần xây dựng hệ giá trị quốc gia,
văn hóa, gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TIẾP CẬN CHÍNH SÁCH CHỦ ĐỘNG VÀ LINH HOẠT ĐỂ THÍCH ỨNG VỚI XU THẾ GIÀ HÓA DÂN SỐ NHANH HIỆN NAY
Xu
thế già hóa dân số nhanh tạo nên những áp lực cho việc bảo đảm an sinh,
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Tuy nhiên, người cao tuổi cũng là một
nguồn lực to lớn, cần khai thác, phát huy. Vì vậy, cần có quan điểm
toàn diện khi tiếp cận vấn đề người cao tuổi, không chỉ thấy khó khăn,
thách thức mà còn thấy cả tiềm năng, cơ hội. Ví dụ, khi số lượng người
cao tuổi tăng cao, tạo ra các áp lực, thách thức về bảo đảm an sinh,
chăm sóc sức khỏe, nhưng đồng thời cũng mở ra cơ hội, thị trường cho
phát triển các loại hình dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, vui chơi, giải
trí,… cho người cao tuổi. Chính sách cho người cao tuổi cũng phải toàn
diện, không chỉ là các chính sách bảo đảm an sinh, chăm sóc sức khỏe mà
phải cả các chính sách khai thác, phát huy tiềm năng, trí tuệ, sức sáng
tạo của người cao tuổi trong gia đình và xã hội. Do đó, cần tiếp cận
chính sách chủ động và linh hoạt để thích ứng với xu thế già hóa dân số
nhanh hiện nay:
Thứ nhất,
cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an
sinh, chăm sóc sức khỏe và phát huy vai trò người cao tuổi. Công tác
người cao tuổi đã được Đảng ta quan tâm, thể hiện qua việc ban hành các
văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, như Chỉ thị số 59/CT-TW, ngày 27/9/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về "Chăm sóc người cao tuổi"; Nghị
quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kết luận số 58-KL/TW, ngày
23/6/2023 của Ban Bí thư về "Tổ chức và hoạt động của Hội Người cao
tuổi Việt Nam”;… Tuy nhiên, trong tình hình mới, trước xu thế già hóa
dân số nhanh chóng và tính cấp thiết của vấn đề người cao tuổi, cần có
một nghị quyết chuyên đề của Trung ương, của Bộ Chính trị về công tác
người cao tuổi, trong đó, đặt vấn đề một cách tổng thể, từ bảo đảm an
sinh, chăm sóc sức khỏe đến khai thác, phát huy vai trò của người cao
tuổi đối với sự phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, cơ chế, chính sách
đối với người cao tuổi mới đồng bộ, nhất quán và thống nhất trong phạm
vi cả nước. Nghị quyết của Đảng yêu cầu mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi tổ
chức trong hệ thống chính trị nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của
người cao tuổi trong đời sống xã hội; đồng thời, ý thức được nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình cũng như có các hoạt động cụ thể theo hướng bảo đảm
an sinh, chăm sóc sức khỏe và phát huy vai trò người cao tuổi.
Thứ hai,
hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách đối với người cao tuổi để chủ
động và linh hoạt thích ứng với xu thế già hóa dân số nhanh hiện nay,
bao gồm từ Luật Người cao tuổi đến các văn bản pháp luật khác và cơ chế,
chính sách liên quan. Cụ thể:
Xây
dựng cơ chế trân trọng, tôn vinh những tấm gương người cao tuổi trong
gia đình và xã hội. Các hình thức tôn vinh có thể rất đa dạng, do các
chủ thể khác nhau thực hiện, từ Nhà nước đến các tổ chức chính trị - xã
hội, doanh nghiệp, cộng đồng. Huy động rộng rãi các nguồn lực xã hội hóa
cho công tác này. Bên cạnh việc tôn vinh, cần có biện pháp phê phán,
lên án, răn đe các hành vi xúc phạm nhân phẩm, uy tín, ngược đãi, ép
buộc người cao tuổi cả trong gia đình và xã hội.
Bảo
đảm an sinh cho người cao tuổi. Trên con đường hướng tới phát triển bao
trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau, cần đặc biệt quan tâm bảo đảm an
sinh cho người cao tuổi, nhất là các đối tượng khó khăn, không có lương
hưu và thu nhập ổn định. Tăng cường các hình thức trợ cấp xã hội, mở
rộng phạm vi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người cao tuổi, bao gồm
cả hình thức đóng góp và không đóng góp thông qua hệ thống bảo trợ xã
hội đa tầng; xem xét mức trợ cấp lương hưu xã hội để hỗ trợ người cao
tuổi đạt mức sống tối thiểu, cũng như bảo đảm hệ thống an sinh xã hội
đáp ứng với cú sốc rủi ro. Ở tầm vĩ mô, cần tăng chi cho an sinh xã hội
bằng cách tăng sự đóng góp từ ngân sách nhà nước, người làm công ăn
lương cũng như người sử dụng lao động để có độ bao phủ an sinh xã hội
rộng hơn. Công tác bảo đảm an sinh xã hội cần xác định lấy con người làm
trung tâm của sự phát triển, bảo đảm chính sách xã hội phải được xây
dựng và triển khai thực hiện hài hòa, đồng bộ với phát triển kinh tế.
Hoàn
thiện cơ chế, chính sách ưu đãi cho người cao tuổi, bao gồm cả tinh
thần và vật chất. Cần xây dựng văn hóa ưu tiên người cao tuổi trong các
không gian công cộng (ưu tiên xếp hàng nơi công cộng, ghế ưu tiên trên
các phương tiện giao thông công cộng,…). Có chính sách miễn, giảm phí,
lệ phí giao thông công cộng, các điểm du lịch, văn hóa, vui chơi, giải
trí,… Chính sách ưu đãi người cao tuổi cần thực hiện thống nhất trong
toàn quốc để bảo đảm công bằng cho người cao tuổi khi tiếp cận dịch vụ.
Xây
dựng cơ chế, chính sách ưu đãi các tổ chức, cá nhân để khuyến khích
phát triển các dịch vụ cho người cao tuổi, như bệnh viện, nhà dưỡng lão,
các điểm văn hóa, thể thao, vui chơi, giải trí,… nhằm hạ giá thành dịch
vụ, bảo đảm cho người cao tuổi dễ dàng tiếp cận. Chính sách ưu đãi có
thể bao gồm các lĩnh vực, như miễn, giảm thuế, tiếp cận đất đai, mặt
bằng kinh doanh, tín dụng ưu đãi,…
Có
chính sách động viên, khuyến khích người cao tuổi tham gia công tác xã
hội nơi địa bàn sinh sống, tham gia các hình thức lao động phù hợp với
năng lực, trình độ và sức khỏe. Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp
và cá nhân sử dụng lao động người cao tuổi. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Bộ luật Lao động để có thêm các hình thức hợp đồng lao động linh hoạt,
phù hợp với người cao tuổi, như làm việc theo giờ, làm việc không trọn
thời gian, các hình thức thuê, khoán, chuyên gia,… Pháp luật cũng cần có
các biện pháp bảo vệ người lao động cao tuổi trong các hình thức giao
kết hợp đồng cũng như trong các tranh chấp lao động nếu phát sinh.
Có
các hình thức tôn vinh, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng
góp cho sự nghiệp bảo đảm an sinh, chăm sóc sức khỏe và phát huy vai trò
của người cao tuổi Việt Nam.
Thứ ba,
kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Ủy ban Quốc gia về người cao
tuổi để phối hợp, điều tiết chính sách, pháp luật và hệ thống văn bản
hướng dẫn tổ chức thực hiện đầy đủ, toàn diện chế độ, chính sách của
Đảng, Nhà nước đối với người cao tuổi. Sớm ban hành và thực hiện Chiến
lược quốc gia về người cao tuổi Việt Nam. Củng cố tổ chức và đổi mới
hoạt động của Hội Người cao tuổi Việt Nam.
Là
tổ chức xã hội, đại diện nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người cao tuổi Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam thời gian qua đã
tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; xây dựng hội vững mạnh
toàn diện, làm tốt vai trò đại diện quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp
của hội viên - người cao tuổi; tích cực phát triển hội viên và củng cố
tổ chức hội, nhất là ở cơ sở; thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và
phát huy vai trò người cao tuổi; giúp đỡ người cao tuổi có hoàn cảnh
khó khăn; khích lệ người cao tuổi phát huy trí tuệ, kinh nghiệm góp phần
phát triển mọi mặt của địa phương, đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; làm cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước với người cao
tuổi. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy, năng lực công tác của một bộ phận cán
bộ hội còn hạn chế; chưa thực sự làm tốt vai trò đại diện, tham
mưu với cấp ủy, chính quyền, chưa phát huy vai trò tích cực của người
cao tuổi và tổ chức hội trong đời sống xã hội. Tổ chức hội cấp tỉnh, cấp
huyện mới chỉ được thành lập thí điểm ở 13 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Đã đến lúc xây dựng tổ chức hội người cao tuổi cấp tỉnh, cấp
huyện ở những nơi có đủ điều kiện theo tinh thần Kết luận số 58-KL/TW
của Ban Bí thư. Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cần nhận thức đầy
đủ, sâu sắc về công tác người cao tuổi; quan tâm đúng mức việc xây dựng
tổ chức hội và đội ngũ cán bộ hội; dành nguồn kinh phí thỏa đáng hỗ trợ
cho hoạt động của Hội Người cao tuổi, nhất là ở địa phương, cơ sở./.
NGUYỄN ĐỨC KHA (tapjchicongsan.org.vn)
____________________
(1) (2) Nguyễn Thanh Bình: Già hóa dân số nhanh ở Việt Nam và khuyến nghị chính sách, https://nhandan.vn/gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet-nam-va-khuyen-nghi-chinh-sach-post756305.html, ngày 6/6/2023.
(3) Thu Hằng: Thu nhập từ lương hưu của người cao tuổi Việt Nam rất thấp, https://vneconomy.vn/thu-nhap-tu-luong-huu-cua-nguoi-cao-tuoi-viet-nam-rat-thap.htm, ngày 20/4/2022.
(4) Nguyễn Thanh Bình: Người cao tuổi - Lực lượng quan trọng góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/827245/nguoi-cao-tuoi---luc-luong-quan-trong-gop-phan-phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-trong-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc.aspx, ngày 9/4/2023.