Các đại biểu đã nghe Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng quán triệt chuyên đề về Nghị quyết 43 tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
TỔNG KẾT 20 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW
Tại Hội nghị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết có 3 lý do rất quan trọng để Trung ương ban hành nghị quyết 43. Sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 9 đã hoàn thành mục tiêu cơ bản, giải pháp mà nghị quyết đã đề ra. Theo Chủ tịch nước vấn đề phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề xuyên suốt, lâu dài nên phải có nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cho vấn đề này trong tình hình mới.
Nghị quyết 23 đã xác định 1 mục tiêu, 4 quan điểm, 5 chủ trương và giải pháp chủ yếu. Qua 20 năm thực hiện đã đạt được một số kết quả nổi bật như sau: Trong 20 năm thực hiện Nghị quyết 23, đã có nhiều chủ trương mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền; quan tâm phát triển toàn diện khu vực miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn, giữ vững sự ổn định CT-XH, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tính đến thời điểm Tổng kết Nghị quyết 23, riêng lĩnh vực công tác dân vận, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ khóa IX đến XIII đã ban hành 12 nghị quyết, 24 kết luận và thông báo kết luận, 16 chỉ thị, 13 quy định, 4 hướng dẫn và nhiều quy chế, quy định. Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ năm 2003 đến nay đã thông qua Hiến pháp 2013 và ban hành 186 luật, pháp lệnh, nghị quyết có nội dung liên quan đến quan điểm, chủ trương của Nghị quyết 23-NQ/TW. Giai đoạn 2007 - 2021, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 2.146 nghị định, 1.113 quyết định, 8.938 thông tư, 943 thông tư liên tịch các bộ, ngành ban hành để cụ thể hóa luật, pháp lệnh của Quốc hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua 20 năm, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy. Các giai tầng xã hội chuyển biến tích cực, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng…
Trong những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm tăng cường phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết giữa “xây” và “chống”. Các luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thanh tra, kiểm toán, tài chính công được sửa đổi, hoàn thiện, tạo tiền đề xây dựng cơ chế phòng ngừa tham nhũng toàn diện và sâu rộng, là cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định vị thế, phát huy vai trò, trách nhiệm và bảo đảm sự đồng bộ hoạt động của các cơ quan trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng lãng phí, tiêu cực, góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, sử dụng tài chính công, tài sản công nói riêng.
Từ năm 2013 đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương đã khởi tố, điều tra 14.300/24.410 bị can; xét xử sơ thẩm hơn 11.700/22.600 bị cáo về tham nhũng kinh tế, chức vụ. Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng chống tham nhũng, tiêu cực từ khi thành lập đến nay đã đưa 800 vụ án, vụ việc tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo ở 3 cấp độ; trong đó Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo 180 vụ án, 133 vụ việc, đã xét xử sơ thẩm 120 vụ án/1.083 bị cáo, với mức án rất nghiêm khắc, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả, tạo bước đột phá trong công tác phát hiện và phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần đưa đất nước ta từ một nước chậm phát triển thành nước đang phát triển. Quy mô nền kinh tế đã đạt gần 410 tỷ USD, tăng gấp nhiều lần so với thời điểm ban hành Nghị quyết. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 8 lần, từ 498,58 USD (năm 2000) lên 4.162,94 USD (năm 2022). Đời sống Nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo từ 12% (năm 2003) giảm còn 4,3% (năm 2022). Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. |
Qua 20 năm thực hiện Nghị quyết 23, Trung ương đánh giá còn một số hạn chế, khuyết điểm và một số bài học. Thực tiễn sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 23 và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tình hình thế giới, khu vực, trong nước đã có nhiều thay đổi.
Từ kết quả, hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm; Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết 23 đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm rất sâu sắc:
Một là, nhiệm vụ xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phải được quán triệt sâu sắc, triển khai quyết liệt; cụ thể hóa và tổ chức thực hiện sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng, giai tầng xã hội, địa phương, vùng miền.
Hai là, mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát và bảo đảm phục vụ lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Ba là, cùng với thường xuyên củng cố nền tảng liên minh chính trị giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phải tăng cường mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp Nhân dân, phát huy tinh thần yêu nước, khả năng đóng góp của mọi người cho sự nghiệp chung, vì tương lai, hạnh phúc của mọi người dân Việt Nam.
Bốn là, sự gương mẫu, luôn gắn bó mật thiết của cán bộ, đảng viên với Nhân dân, vì Nhân dân phục vụ; sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị là nhân tố quyết định đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, chủ động nghiên cứu, dự báo đúng tình hình, có giải pháp phù hợp, thích ứng linh hoạt với những biến động quốc tế và quá trình hội nhập của đất nước trên nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chăn các âm mưu chia rẽ Nhân dân với Đảng và Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
BỐN QUAN ĐIỂM CHÍNH CỦA NGHỊ QUYẾT 43-NQ/TW HƯỚNG TỚI
Về nội dung của Nghị quyết 43, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết có 4 quan điểm được Đảng tiếp cận đầy đủ, toàn diện, hệ thống, trong đó, khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc.
Quan điểm 1, Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Bác Hồ đã nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công" - dẫn lại lời dạy của Bác Hồ, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho rằng, nếu như có đoàn kết trong Đảng thì sẽ có thành công. Nếu có đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân thì sẽ có thành công lớn hơn và nếu có cả đoàn kết trong Đảng, trong dân và đoàn kết quốc tế thì sẽ đạt tới đại đoàn kết, đại thành công lớn hơn. Như vậy, cách đặt vấn đề của Nghị quyết 43 đã rộng hơn, làm rõ hơn nội hàm của đại đoàn kết dân tộc.
Quan điểm 2, có tính hiệu triệu người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ Nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân.
Quan điểm 3, đề cao phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân”.Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển.
Quan điểm 4, vai trò của cả hệ thống chính trị về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt chính trị trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu của Nghị quyết là tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
|
Tin, ảnh: Nhật Minh