KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Qua gần 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 20, tư duy quản lý nhà nước về KH-CN được đổi mới, hệ thống pháp luật về KH-CN đang được hoàn thiện, cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động KH-CN đổi mới cơ bản phù hợp với đặc thù của hoạt động KH-CN, tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho hoạt động KH-CN; nhiều yếu tố mới, nhân tố mới hình thành và phát triển như đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các yếu tố mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã được nghiên cứu, ứng dụng trong các ngành, lĩnh vực quan trọng của đất nước.
KH-CN đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao vị thế của quốc gia, bảo đảm quốc phòng - an ninh, góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển lực lượng sản xuât hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Công tác đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động KH-CN được nhiều bộ, ngành đặc biệt quan tâm, công tác quản lý KH-CN được đổi mới một cách mạnh mẽ; các nội dung, nhiệm vụ đã chú trọng vào hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ, quản trị sản xuất, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; việc tổ chức thực hiện đã tập trung vào xây dựng những nhiệm vụ KH-CN có quy mô lớn, theo cụm nhiệm vụ để giải quyết những vấn đề cấp thiết, trọng điểm.
Một số lĩnh vực khoa học cơ bản như toán học, vật lý, công nghệ vệ tinh Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; một số lĩnh vực của một số trường đại học đạt trình độ tiên tiến thế giới ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ, khoa học máy tính… Một số sản phẩm sáng tạo, sáng chế đạt huy chương vàng và huy chương bạc sáng chế quốc tế iCAN22. Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII năm 2022, Việt Nam đứng thứ 48/132 nền kinh tế (năm 2021 đứng thứ 44/132), nằm trong top 50 và đứng thứ 2 trong nhóm 36 nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, đứng thứ 10 trong số 17 nền kinh tế ở Đông Nam Á và châu Đại Dương.
Cùng với đó, KH-CN đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước, nhiều kết quả vượt mục tiêu đề ra, cụ thể: Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 40,1% vào tăng trưởng kinh tế; giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 45%; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 51,7%; giá trị giao dịch của thị trường KH&CN đạt 22%/năm; đã xây dựng được nhiều sản phẩm quốc gia mang thương hiệu Việt Nam.
Tiềm lực KH-CN được tăng cường. Số lượng công bố KH-CN quốc tế của Việt Nam tăng liên tục. Năm 2020 số lượng đã tăng gấp bốn lần so với giai đoạn đầu, từ 4.510 bài lên 18.197 bài; đặc biệt tăng mạnh trong 2 năm vừa qua. Việt Nam đứng thứ 5 về tổng số công bố quốc tế trong khu vực ASEAN. Số lượng các sáng chế được bảo hộ tăng liên tục, năm 2015 tăng 15 lần so với giai đoạn 2006-2010, đến năm 2020 tăng gấp đôi so với giai đoạn 2011-2015; đến năm 2021 đã có 3.513 bằng độc quyền sáng chế/giải pháp hữu ích và 22.828 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp…
Sau khi Nghị quyết 20 được ban hành, một số quỹ liên quan đến KH-CN đã được thành lập như Quỹ phát triển KH-CN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp KH-CN Việt Nam. Cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập KH-CN trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng cường phân cấp và giao quyền chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập đang dần hoàn thiện theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Chuyển đổi số trong công tác quản lý KH-CN là điểm nổi bật về đổi mới hoạt động KH-CN, được nhiều đơn vị quan tâm đẩy mạnh và đạt được những kết quả đáng khích lệ như: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam...
Trong các trường đại học, viện nghiên cứu, đã hình thành một số nhóm nghiên cứu mạnh, nghiên cứu cơ bản xuất sắc đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ trọng điểm quốc gia và đang phát triển mạnh mẽ các nhóm nghiên cứu trẻ có tiềm năng.
Năng lực, hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH-CN; các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN; các trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; các trung tâm thông tin và thống kê KH-CN ở Trung ương và địa phương được tăng cường. Đến năm 2020, cả nước có 47 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao và cơ sở ươm tạo khác có thể xem xét tương đương.
Đầu tư cho KH-CN đang dần đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong đóng góp của xã hội, nhất là từ khu vực doanh nghiệp. Nếu như khoảng 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động KH-CN chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (khoảng 70-80% tổng đầu tư cho KH-CN), thì đến nay đầu tư cho KH-CN từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%. Tỷ trọng nguồn kinh phí từ Nhà nước trong tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển đã giảm xuống dưới 50%, trong khi nguồn đầu tư ngoài nhà nước tăng mạnh từ gần 12% năm 2015 lên trên 40% năm 2019. Khu vực doanh nghiệp ngày càng tích cực trong đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, chiếm 64,4% tổng kinh phí nghiên cứu và phát triển quốc gia, so với mức 58,10% năm 2015. Trong khi đó, tỷ lệ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước trong tổng chi nghiên cứu và phát triển giảm từ 55,87% (năm 2013) xuống còn 33,93% (2015) và đến năm 2019 chỉ còn 28,55%. Một số doanh nghiệp lớn đã tự bỏ kinh phí cho nghiên cứu và phát triển…
TIỀM LỰC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CHƯA TƯƠNG XỨNG VỚI YÊU CẦU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 20 thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, bất cập. Việc triển khai các nội dung của Nghị quyết còn chậm; việc thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết chưa đồng bộ; cơ chế chính sách chưa theo kịp với sự phát triển của KH-CN và thực tiễn của xã hội; cơ chế tài chính còn nhiều bất cập; hành lang pháp lý cho hoạt động KH-CN chưa được hoàn thiện để huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội.
Còn nhiều quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết chưa được các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương quán triệt đầy đủ. KH-CN chưa thực sự được coi là “quốc sách hàng đầu”; chưa ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển KH-CN, để KH-CN trở thành “động lực quan trọng nhất” trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Còn thưa thớt vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc các cấp, chưa phát huy tốt vai trò tư vấn, phản biện và giám định xã hội của các hội trí thức KH-CN. Cơ chế quản lý hoạt động KH-CN vẫn nặng tính hành chính, đầu tư ngân sách chưa hợp lý, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Doanh nghiệp chưa trở thành trung tâm của ứng dụng và chuyển giao công nghệ, chưa phải là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường KH-CN. Nhân lực KH-CN hạn chế về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trình độ KH-CN của một số lĩnh vực còn tụt hậu so với thế giới.
Công tác quản lý nhà nước nặng về hành chính, chậm đổi mới, thiếu linh hoạt, thiếu kiểm soát và điều tiết vĩ mô; công tác quy hoạch và tái cấu trúc lại hệ thống KH-CN triển khai chậm, nhiều mô hình tổ chức KH-CN công lập chưa phù hợp với điều kiện và yêu cầu thực tiễn. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển KH-CN chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tiềm lực KH-CN chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của đất nước; trình độ KH-CN ở nước ta vẫn ở mức thấp, đội ngũ cán bộ KH-CN chưa đủ số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đội ngũ cán bộ KH-CN chưa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; tính kỷ luật, tinh thần cống hiến của đội ngũ cán bộ KH-KT chưa cao…
KH-CN và đổi mới sáng tạo của Việt Nam chưa thực sự hội nhập với quốc tế, đặc biệt là về quản lý KH-CN và đổi mới sáng tạo chưa theo chuẩn mực quốc tế; hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia Việt Nam đang trong quá trình hình thành. Doanh nghiệp chưa trở thành trung tâm của ứng dụng và chuyển giao công nghệ, vai trò doanh nghiệp còn mờ nhạt, chưa phải là nguồn “cầu” quan trọng nhất của thị trường KH-CN. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, dịch vụ hạ tầng còn yếu, hiệu quả thấp…
TIẾP TỤC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN, NÂNG CAO NHẬN THỨC
Một ví dụ về hạn chế lớn được xem như “điểm nghẽn” trong hoạt động KH-CN, đó chính là chưa thực sự bước vào “cơ chế thị trường”. Các nhà khoa học có những nghiên cứu, sáng tạo nhưng không có thời gian để tuyên truyền, quảng bá sản phẩm khoa học của mình cho bên mua (doanh nghiệp, người dân), do đó, các kết quả nghiên cứu dù đạt hiệu quả tốt nhưng chưa có tính ứng dụng cao; ngược lại, người dân, doanh nghiệp chưa biết đến khả năng, kết quả của nhà khoa học để đặt hàng những yêu cầu từ cuộc sống. Để khắc phục điều này, bên cạnh cần tiếp tục đổi mới mô hình quản lý KH-CN, tăng tính trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước... thì giải pháp rất quan trọng chính là đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông hai chiều giữa khoa học và thực tiễn; tuyên truyền làm rõ sự phân vai, phân nhiệm cho các tổ chức khoa học, quản lý, khởi nghiệp, sản xuất.
Như vậy, việc tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về Nghị quyết 20 phải được xác định là một trong những nội dung công việc trọng tâm trong thời gian tới. Qua đó tiếp tục khẳng định, trong bối KH-CN và đổi mới sáng tạo cũng với cuôc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn biến nhanh chóng, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, KH-CN và đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia; phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa - chủ trương xuyên suốt và nhất quán của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Theo đó, các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tiếp tục chỉ đạo, tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết 20 tới cán bộ, đảng viên và nhân dân với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương, doanh nghiệp và toàn xã hội trong quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học lý luận chính trị. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế, chính sách quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…
Đồng thời, 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết 20 cần tiếp tục được quan tâm triển khai tích cực trong thời gian tới với những nội dung trọng tâm sau:
Một là, thường xuyên tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng; đồng thời, tăng cường vai trò tham mưu, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn trong đơn vị. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với hiệu quả triển khai thực hiện Nghị quyết 20, giao nhiệm vụ cụ thể đồng thời với cơ chế theo dõi, giám sát thực thi nhiệm vụ
Hai là, khi xây dựng chính sách cần lấy mục tiêu phát triển KH-CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước là mục tiêu chung, từ đó hình thành hệ thống chính sách thống nhất trong phát triển KH-CN với các chính sách pháp luật có liên quan, nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động KH-CN trong mỗi tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân. Các chính sách cụ thể của ngành, lĩnh vực, địa phương cũng cần điều chỉnh nhanh chóng, phù hợp theo yêu cầu thực tiễn, tránh trở thành rào cản. Thay đổi tư duy từ quản lý sang tư duy phát triển, tạo tính đột phá trong các chính sách về KH-CN.
Ba là, cần có sự phối hợp chặt chẽ, cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về KH-CN, đảm bảo tính đan xen giữa quản lý ngành và lĩnh vực, tính đặc thù, đa dạng trong hoạt động KH-CN. Việc phân công trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và quản lý của các địa phương đối với các nhiệm vụ, chương trình KH-CN như mô hình hiện tại là thuận lợi do gắn với phân công của Chính phủ trong chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương, tuy nhiên ở góc độ hoạt động liên nghành, liên lĩnh vực, tính ứng dụng, lan tỏa của KH-CN như hiện nay cũng với mô hình quản lý thì lại bất cập, không phù hợp với xu hướng phát triển của lĩnh vực KH-CN, tạo sự chia nhỏ, trùng lặp với nhiều nhiệm vụ.
Bốn là, cần duy trì và tiếp tục gia tăng tỷ lệ đầu tư của Nhà nước cho hoạt động KH-CN, đặc biệt trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của KH-CN dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong giai đoạn hiện nay, đầu tư cần tập trung vào nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của nền sản xuất trong nước, tạo cầu về thị trường KH-CN, việc tiếp cận theo chiều ngược lại sẽ phù hợp ở giai đoạn tiếp theo, khi trình độ và hoạt động KH-CN trong nước ở mức độ cao hơn.
Năm là, cần đưa các chỉ tiêu, mục tiêu của các chỉ thị, nghị quyết, chiến lược phát triển KH-CN của Đảng và Chính phủ vào hệ thống dữ liệu kinh tế - xã hội nói riêng và dữ liệu KH-CN nói riêng để tạo thuận lợi cho công tác đánh giá, sơ kết, tổng kết và định hướng phát triển cho giai đoạn sau./.
Nghị quyết số 20 được tập trung nghiên cứu, quán triệt, triển khai nghiêm túc và rộng khắp, tập trung vào những nội dung trọng tâm: Một là, đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển KH-CN; Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động KH-CN; Ba là, triển khai các định hướng nhiệm vụ KH-CN chủ yếu; Bốn là, tiềm lực KH-CN; Năm là, phát triển thị trường KH-CN; Sáu là, hợp tác và hội nhập quốc tế về KH-CN…
|
PHẠM QUÝ TRỌNG