Việc gìn giữ, làm sống dậy dòng tranh dân gian Việt
Nam như tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống và Kim Hoàng (Hà Nội), Nam
Hoành (Nghệ An)... trong bối cảnh hiện nay được ví như bơi trong muôn
trùng sóng gió.
Đã từ lâu, dòng tranh dân gian không còn chiếm vị
trí chủ đạo trong đời sống hội họa, bởi sự phát triển vượt lên của các
dòng tranh hiện đại khác. Có chăng, nó còn sống trong tâm thức của những
người yêu tranh truyền thống hoặc trong một vài gia đình tâm huyết ở
các làng nghề làm tranh. Vậy nên thật đáng quý khi giữa muôn vàn khó
khăn, vẫn có những người đang nỗ lực gìn giữ, vực dòng tranh dân gian,
không để nó biến mất trong đời văn hóa tinh thần người Việt.
Mai một dòng tranh quý
Tranh
dân gian vốn gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hóa tinh thần của người
dân, phục vụ việc thờ cúng hoặc trang trí ngày lễ Tết. Không ít thì
nhiều, các gia đình đều có một vài bức tranh treo thường xuyên trong nhà
và có thể thay những bức tranh mới khi năm hết Tết đến.
Ngôn ngữ của tranh dân gian là những ý niệm về vũ trụ quan, nhân sinh
quan và quan niệm về cái đẹp, rất gần gũi với đời sống người dân. Nhắc
đến những tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống và Kim Hoàng (Hà Nội),
Nam Hoành (Nghệ An), tranh làng Sình (Huế), tranh Kính (Nam Bộ)… một
thời, hầu như ai cũng biết tới. Nhưng đến nay, dòng tranh dân gian này
đang chịu những tác động không nhỏ của cuộc sống, khiến nguy cơ mai một
rất cao.
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả, làng tranh Đông Hồ, xã Song
Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh không khỏi nuối tiếc khi nhớ đến thời
thịnh vượng của làng nghề làm tranh. Thủa đó, nhà nhà làm tranh, mỗi dịp
Tết đến là cả làng nhộn nhịp, tất bật. Vậy mà, khi cuộc sống thay đổi
đã khiến dòng tranh Đông Hồ đi xuống, sức tiêu thụ giảm, số nghệ nhân
sống bằng tranh không còn nhiều. Khi không làm tranh, các gia đình lại
chuyển sang làm hàng mã để mưu sinh.
Cùng tâm trạng này, ông
Nguyễn Sinh Phúc, Phó Hiệu trưởng trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật và
du lịch Yên Bái chia sẻ về sự mai một tranh thờ của người Dao ở Yên Bái.
Ông Nguyễn Sinh Phúc cho biết, nhiều bộ tranh thờ cổ có từ lâu đời
nhưng bị người dân bán cho thương lái hoặc các nhà sưu tập tranh thờ,
thay vào đó là các bộ tranh do các thầy tào, thầy cúng vẽ mới. Việc vẽ
lại các bức tranh thờ với cách thức thể hiện đơn giản và thiên về tính
tiện lợi, sử dụng chất liệu mới đã bị “tam sao thất bản” so với các
tranh cổ, làm cho giá trị tranh thờ không còn đẹp như trước. Hơn nữa,
nhiều thầy tào, thầy cúng tuổi đã cao nhưng chưa có con cháu có đủ tố
chất để truyền nghề nên gặp nhiều nguy cơ thất truyền.
Bên cạnh
tập quán chơi tranh và sử dụng tranh không còn phổ biến như trước, các
gia đình và nghệ nhân tranh dân gian không còn nhiều khiến dòng tranh
này có nguy cơ mai một cao, thì một trong những nguyên nhân khác là
nguồn cung cấp nguyên vật liệu làm tranh bị ngưng trệ. Sự thay đổi trong
việc sử dụng các vật liệu làm giấy như trộn màu trắng vào điệp, quét
lên giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh. Việc sử dụng màu
vẽ công nghiệp trong những năm gần đây cũng tạo nên những biến đổi về
chất đối với các loại tranh dân gian truyền thống. Một mặt, một số hộ
sản xuất còn đục bỏ các phần chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều bức ván in
khiến cho ý nghĩa của các bức tranh bị ảnh hưởng, làm suy giảm tính
nguyên gốc, tính hấp dẫn của những họa phẩm này.
Làm sống dậy dòng tranh dân gian
Việc
gìn giữ, làm sống dậy dòng tranh dân gian Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay được ví như bơi trong muôn trùng sóng gió. Gìn giữ đã khó nhưng làm
sống dậy lại khó gấp cả trăm lần. Nếu dòng tranh Hàng Trống chỉ còn nghệ
nhân Lê Đình Nghiên giữ nghề và đến nay con trai ông là Lê Hoàn đang
tiếp nối, tranh Đông Hồ còn hai dòng họ của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế,
Nguyễn Đăng Giáp và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam gìn giữ, tranh làng Sình có
nghệ nhân Kỳ Hữu Phước lưu truyền… thì tranh Kim Hoàng không còn nghệ
nhân nào theo nghề. Nhưng dù khó khăn nhưng các nghệ nhân còn lại của
dòng tranh dân gian Việt Nam đều quyết tâm giữ nghề và luôn đau đáu tìm
những người trẻ có tâm huyết để truyền nghề. Bên cạnh những nghệ nhân
tranh, những người yêu dòng tranh truyền thống cũng luôn nỗ lực trong
việc gìn giữ, hồi sinh tranh dân gian.
Trong những năm qua, bà
Nguyễn Thị Thu Hòa, Giám đốc bảo tàng gốm sứ Hà Nội dày công với dự án
khôi phục tranh Kim Hoàng, giúp dòng tranh này hồi sinh. Dự án khôi phục
tranh Kim Hoàng sẽ khôi phục lại 50 mẫu tranh cũ và thiết kế mẫu tranh
dân gian hiện đại. Trong số 50 mẫu cũ của tranh Kim Hoàng còn tồn tại
phần lớn là tranh sinh hoạt của con người, các tích truyện. Những người
làm dự án sẽ tô thêm màu sắc cho tranh trên cơ sở tham khảo ý kiến của
các cụ cao niên trong làng, tìm chất liệu giấy in tranh tương tự như
giấy cũ và học cách in tranh cho đúng nguyên gốc. Dự án này cơ bản nhận
được sự đồng thuận của những người trong làng tranh Kim Hoàng xưa.
Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam là nơi nghiên cứu, sưu tầm nhiều hiện vật liên
quan đến tranh dân gian Việt Nam. Tại đây có bộ sưu tập lớn gồm 2.669
hiện vật, trong đó tranh Đông Hồ 1.288 hiện vật, tranh Hàng Trống 271
hiện vật, tranh Kim Hoàng 2 hiện vật, tranh làng Sình 30 hiện vật, tranh
dân gian nói chung 306 hiện vật, tranh cổ 369 hiện vật… Trong những năm
qua, Bảo tàng Mỹ thuật quan tâm sưu tập, bổ sung vào hệ thống tranh dân
gian của bảo tàng qua việc mua bổ sung các loại tranh dân gian, tranh
thờ miền núi. Bảo tàng còn in, làm bản phiên các sưu tập tranh Hàng
Trống, mua bổ sung các loại tranh và ván in tranh làng Sình. Ngoài ra,
đơn vị này còn liên tục nghiên cứu, sưu tầm những bức tranh còn thiếu,
những dòng tranh thất truyền không còn sản xuất nhưng còn lưu lại ít ỏi ở
các vùng miền nhằm bổ sung cho sưu tập.
Dù còn khó khăn nhưng
nỗ lực gìn giữ, vực dậy dòng tranh dân gian Việt Nam của các nghệ nhân,
những người yêu tranh, những đơn vị liên quan đến dòng tranh này đều rất
đáng trân trọng. Cho dù sức sống của dòng tranh dân gian không trở lại
như trước nhưng ít ra cũng không thể mai một nhanh chóng và sẽ có nhiều
hơn thế hệ trẻ biết tới dòng tranh quý này.
Đinh Thị Thuận (TTXVN)