(TG) - Trong các ngày từ 23 - 25/3, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Hà Giang (Liên hiệp hội), phối hợp với Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD), đại diện nhà tài trợ - Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức lễ bàn giao 5 hệ thống cấp nước sạch, nước uống trực tiếp cho các trường học trên địa bàn tỉnh Hà Giang trước sự chứng kiến của đông đảo cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên, hội phụ huynh và chính quyền địa phương.
5 hệ thống cấp nước sạch và nước uống trực tiếp, hay còn gọi là nước uống học đường (NUHĐ) là mô hình được Liên hiệp hội tỉnh Hà Giang xây dựng trong nội dung Dự án “Tăng cường tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường cho trường học và người dân tỉnh Hà Giang” (Dự án), nằm trong chuỗi Dự án tổng thể “Các Hoạt động Địa phương Việt Nam vì Sức khỏe Môi trường - Local Works”, do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ và Viện PHAD chủ trì.
Mục tiêu của Dự án Local Works nhằm phát huy sáng kiến của các tổ chức địa phương với phương châm “làm để học” và dựa trên nguyên tắc tự làm, tự quản và tự hưởng lợi. Do đó, các hoạt động của Dự án “Tăng cường tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường cho trường học và người dân tỉnh Hà Giang” được Liên hiệp hội lên kế hoạch và chủ động triển khai dưới sự hỗ trợ của chuyên gia Viện PHAD về kỹ thuật, một phần công nghệ, đào tạo và hướng dẫn truyền thông, quản lý và vận hành hệ thống.
Các hệ thống cấp nước được triển khai với quy mô nhỏ, công nghệ tiên tiến, hiện đại và được điều chỉnh công suất bộ xử lý nước đầu nguồn và hệ thống lọc nước tinh khiết phù hợp với điều kiện về nguồn nước đầu vào, địa hình, năng lực thực thi của cộng đồng và nhu cầu sử dụng nước của mỗi trường. Cụ thể là:
Tại trường phổ thông dân tộc bán trú THCS xã Yên Cường (huyện Bắc Mê) và trường Mầm non xã Sủng Là (huyện Đồng Văn), công suất bộ xử lý nước đầu nguồn là 5m3/ ngày và hệ thống máy lọc nước tinh khiết RO, quy mô bán công nghiệp, công suất 120 lít/giờ; tương tự, tại trường phổ thông dân tộc nội trú THCS và THPT Bắc Mê (huyện Bắc Mê) và trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và THCS xã Sà Phìn (huyện Đồng Văn) là: 10m3/ngày và 120 lít/giờ; tại trường Cao đẳng Kỹ thuật và Công nghệ Hà Giang là 30m3/ngày và 300 lít/giờ, đủ nước sạch phục vụ sinh hoạt và nước uống trực tiếp cho nhu cầu người dùng của mỗi trường.
:Hệ thống xử lý cấp nước sạch và nước uống trực tiếp được lựa chọn công nghệ tiên tiến và hiện đại, loại bỏ kim loại nặng, khử độ cứng và làm mền nước, kết hợp với khử trùng bằng Cloramin B. Công nghệ lọc nước với màng lọc RO (Reverse Ossmosis - thẩm thấu ngược), kết hợp sử dụng lõi lọc Nano bạc và đèn UV, loại bỏ hầu hết các chất cặn bẩn, độc tố, kim loại nặng như Chì (Pb), thủy ngân (Hg),Asen, chất phóng xạ, hóa chất nguy hại, thuốc trừ sâu, tiêu diệtvà loại bỏ toàn bộ các loại vi rút, vi khuẩn, nấm mốc gây bệnh và tạo ra nước tinh khiết, vô trùng đáp ứng nước uống trực tiếp theo tiêu chuẩn QCVN 6-1:2010/BYT.
|
Theo đó, tại mỗi hệ thống, Ban Chủ nhiệm Dự án đã đề xuất với địa phương thành lập Ban Quản lý và ban hành Quy chế quản lý, vận hành hệ thống nhằm phát huy vai trò tự quản trong quá trình khai thác, sử dụng nguồn nước. Ban Chủ nhiệm Dự án phối hợp với nhà thầu (Công ty Tekcom) tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nòng cốt về hướng dẫn quản lý sử dụng, theo dõi, giám sát; hướng dẫn giám sát, viết báo cáo giám sát vận hành và chất lượng nước đầu ra; xây dựng bộ tài liệu truyền thông và cuốn sổ tay hướng dẫn vận hành, sổ nhật ký báo cáo giám sát vận hành hệ thống...
Sau gần 3 tháng thử nghiệm, theo dõi, giám sát kỹ thuật và chất lượng nguồn nước của hệ thống, các báo cáo cho thấy, tiêu chí, tiêu chuẩn kỹ thuật đều đảm bảo, chất lượng nguồn nước đầu ra đạt Quy chuẩn Quốc gia về nước sinh hoạt; nước uống trực tiếp đáp ứng nhu cầu sử dụng cho trên 3.240 học sinh, cán bộ, thầy cô giáo của 5 nhà trường tham gia Dự án. Mức độ hài lòng của người sử dụng trên cả 5 hệ thống đạt từ 97 đến 99%.
Tại các buổi lễ bàn giao, các đại biểu được nghe lãnh đạo Liên hiệp hội tỉnh - Chủ nhiệm Dự án báo cáo đánh giá kết quả xây dựng mô hình; báo cáo kết quả vận hành, quản lý hệ thống của các nhà trường; ý kiến của đại diện cơ quan tài trợ; lãnh đạo chính quyền địa phương,… Ban Chủ nhiệm Dự án đã nhận được nhiều đánh giá xác đáng về hiệu quả và tính bền vững của một Dự án. Tuy là Dự án nhỏ, chi phí thấp (chỉ trên 700 triệu đồng cho cả 5 công trình) nhưng hiệu quả lớn, đã mang lại nhiều giá trị thiết thực về kinh tế, xã hội, môi trường và sức khỏe cho cộng đồng.
Ông Cao Hồng Kỳ, Chủ tịch LHH Hà Giang, Chủ nhiệm Dự án, giới thiệu hệ thống lọc nước tinh khiết tại trường Cao đẳng Kỹ thuật và Công nghệ Hà Giang
Qua thực tế vận hành, hệ thống có nhiều tiện ích nổi trội như dễ lắp đặt, độ bền cao, tiết kiệm điện năng, nguồn nước, phù hợp với mô hình tự quản là đơn vị trường học. Kết quả Dự án đã khắc phục được tình trạng học sinh phải mang nước uống từ nhà đến trường, nhà trường chủ động nguồn nước sạch trong sinh hoạt và nước uống trực tiếp mà không phải mua với giá đắt đỏ như trước đây; sức khỏe thể chất và tinh thần của thầy trò được nâng lên, trong đó hạn chế rõ rệt một số bệnh về tiêu hóa và bệnh ngoài da.
Phát biểu trong chuỗi hoạt động bàn giao các hệ thống cấp nước sạch, nước uống trực tiếp cho các đơn vị thụ hưởng, tại Hội thảo khoa học vận động chính sách Nhân rộng mô hình “Nhà tiêu sinh học” và “Hệ thống cấp nước sạch, nước uống học đường” trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tổ chức sáng 24/3, ông Trần Đức Quý, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh ghi nhận và đánh giá cao kết quả đạt được của các mô hình, thể hiện nhiều tiện ích, phù hợp với nhu cầu sử dụng và năng lực quản lý, vận hành của địa phương.
|
Đại diện Liên hiệp hội tỉnh Hà Giang, nhà tài trợ (PHAD) và trường PTDTNT THCS và THPT Bắc Mê (huyện Bắc Mê)) ký biên bản tại lễ bàn giao sáng 25-3.
|
Từ những tiện ích đạt được, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang đã giao cho Liên hiệp hội chủ trì, phối hợp cùng với các sở, ngành của tỉnh tiếp tục đánh giá, tổng hợp kết quả, xây dựng thành chương trình, kế hoạch trình UBND tỉnh xem xét, quyết định ban hành một số chính sách cụ thể làm cơ sở hỗ trợ nhân rộng mô hình tại các trường học, cụm dân cư trên địa bàn tỉnh; phối hợp với các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền về tiện ích, hiệu quả của các mô hình, gắn với việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng nước sạch và VSMT trong đời sống, sinh hoạt, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, bảo vệ an ninh nguồn nước; phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng hệ thống cấp nước sạch và NUHD tại các trường học và cụm dân cư, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp như trước đây./.
Thành Vinh