Toàn dân, trong đó có đội ngũ nhà giáo, nhà quản lý giáo dục đều phấn
khởi chào đón bản Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc hội khóa XIII thông
qua ngày 28-11-2013 tại kỳ họp thứ 6, trong đó có Điều 61 nói về giáo
dục và đào tạo (GD và ĐT). Điều 61 khẳng định vai trò của giáo dục đúng
thời điểm nền giáo dục nước nhà phải đổi mới căn bản, toàn diện, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế theo tinh thần nghị
quyết Hội nghị T.Ư 8, khóa XI.
Ở thời điểm này, Đảng và Nhà nước đã xem xét lại cả quá trình phát
triển giáo dục trong những năm qua, nhất là trong hơn hai thập kỷ đổi
mới. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhất là thành tựu về hệ thống
giáo dục, được xây dựng khá hoàn chỉnh từ mầm non đến sau đại học (ĐH),
hệ thống giáo dục hiện nay đang có nhiều khó khăn, không đáp ứng yêu
cầu của công cuộc phát triển kinh tế -xã hội, nhất là về chất lượng đào
tạo. Hiến pháp sửa đổi sẽ mở ra một giai đoạn mới cho đất nước phát
triển, đi vào CNH, HĐH và nền giáo dục cũng phải vươn lên để đáp ứng yêu
cầu thời đại mới.
Cũng như các thời kỳ cách mạng trước đây, giáo dục muốn phát triển
thành công, trước hết phải có đường lối, quan điểm tư tưởng chỉ đạo.
Điều 61, Hiến pháp sửa đổi khẳng định lại quyết định lớn nhất của Đảng
và Nhà nước là phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này
được Đảng ta đưa ra trong thời kỳ đổi mới, được khẳng định rõ nét và
triển khai mạnh mẽ từ Hội nghị BCH T.Ư 2, khóa VIII năm 1996. Nhà nước
ta đã có nhiều chính sách cụ thể đẩy mạnh phát triển giáo dục. Ngân sách
giáo dục tăng từ hơn 5% khi bắt đầu đổi mới, dần dần nâng lên 10, 15%,
đến năm 2008 đã tăng lên đến 20%. Nhờ đó mà đã thực hiện được một phần
kiên cố hóa trường học, nhất là ở những vùng khó khăn. Thực hiện chương
trình tin học hóa nhà trường, tăng thiết bị dạy học phụ cấp vùng miền
khó khăn, phụ cấp nghề nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà giáo
đứng lớp yên tâm hơn. Tất cả các địa phương đều bảo đảm đủ số lượng giáo
viên và cán bộ quản lý, nay đã lên tới hơn một triệu, trong đó có 10
nghìn cán bộ quản lý các cấp...
Với chính sách đó, đời sống giáo viên được cải thiện một phần. Các
bậc phụ huynh, các cấp ủy đảng và chính quyền quan tâm nhiều hơn đến đội
ngũ nhà giáo. Các hình thức khen thưởng, tôn vinh các nhà giáo đặc biệt
đối với các nhà giáo có công đóng góp nhiều năm và nhiều thành tích như
phong tặng danh hiệu NGƯT, NGND và các huân chương, huy chương cũng trở
thành một động lực tinh thần quý giá.
Mặt khác cũng phải nhận thấy rằng, một số cấp ủy Đảng và chính quyền
từ T.Ư đến địa phương chưa quán triệt và thực hiện đầy đủ quan điểm coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhất là việc chỉ đạo quản lý Nhà nước,
cụ thể trong phát triển GD và ĐT.Chương trình và sách giáo khoa quá nặng
về lý thuyết, một số môn hầu như không có thực hành. Dạy và học chỉ đáp
ứng yêu cầu của thi cử. Hơn nữa chương trình học nhiều môn từ tiểu học
đến THCS, THPT đều quá tải, như môn Toán, theo đánh giá của các nhà sư
phạm, thừa 40-50%. Học sinh học đạo đức không vận dụng, thiếu kỹ năng
sống thường ngày trong gia đình, nhà trường, xã hội. Đấy là chưa nói đến
hiện tượng bạo lực trong nhà trường, bạo lực gia đình, số vị thành niên
phạm pháp không giảm. Điều lo ngại nhất trong tình hình giáo dục hiện
nay là phát triển giáo dục đại học, cao đẳng quá ồ ạt, số lượng trường
tăng quá nhanh, từ lúc cả nước có hơn 100 trường ĐH, CĐ thì nay đã lên
tới hơn 500 trường, có tỉnh trước đây không có trường nào, nay có năm
đến bảy trường ĐH.
Bệnh thành tích chạy theo số lượng cùng với tư tưởng thương mại hóa
giáo dục ở các trường ĐH, CĐ làm cho mục tiêu đào tạo con người và nguồn
nhân lực ngày càng mờ nhạt. Việc dạy chữ, dạy người, dạy nghề được đề
ra từ năm 1980, sang đầu thế kỷ 21 bị buông lơi hoàn toàn, phần lớn chỉ
tập trung vào việc dạy chữ. Trong tình hình như vậy, bên cạnh việc khẳng
định quan điểm, đường lối phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu thì
Điều 61 của Hiến pháp sửa đổi một lần nữa lại khẳng định ba mục tiêu mà
nền giáo dục phải nhắm tới là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài.
Khoản 2 của Điều 61 nêu lên nhiệm vụ phát triển các bậc học trong hệ
thống phát triển quốc dân và điều kiện triển khai. Hiến pháp khẳng định
là trong giai đoạn phát triển cách mạng sắp tới, các bậc học từ mầm non,
giáo dục nghề nghiệp, cho tới giáo dục đại học đều được quan tâm thích
đáng và phát triển theo yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong khoản này nêu rõ giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc và
trung học là bậc học phổ cập giáo dục. Ngày nay, thực hiện Nghị quyết
T.Ư 8 khóa XI, đồng thời triển khai Hiến pháp sửa đổi phải thấm nhuần và
quán triệt tư tưởng chỉ đạo này: tổ chức phân luồng sau lớp chín và
trong các năm học THPT và sau THPT.Tránh tình trạng tất cả đều đổ xô vào
đại học, không phục vụ theo đúng yêu cầu của cơ cấu nguồn nhân lực ở
địa phương và cả nước. Khoản 2 Điều 61 Hiến pháp sửa đổi lần này chưa
quy định phổ cập giáo dục mầm non, mà chỉ xác định: "Chăm lo giáo dục
mầm non", vì vậy các cấp có thẩm quyền cần xem lại chính sách giáo dục
mầm non cho phù hợp.
Chúng ta cần phải triển khai phát triển giáo dục ĐH, nghề nghiệp cho
phù hợp với tình hình. Phải chấn chỉnh những lệch lạc trong nhận thức,
chính sách và triển khai việc phát triển hệ thống các trường đại học,
cao đẳng thì mới hy vọng giáo dục đại học có chất lượng, trước hết đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, sau đó hãy bàn các chỉ tiêu phấn
đấu theo tiêu chuẩn khu vực Đông - Nam Á và thế giới. Hiện nay, trong
tình hình kinh tế khó khăn, Hiến pháp sửa đổi vẫn quy định nhiệm vụ của
Nhà nước đối với việc đầu tư cho giáo dục như là đầu tư cho phát triển,
là hết sức có ý nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân và ngành giáo dục đều trông
đợi mong mỏi nội dung này của Hiến pháp sửa đổi mau chóng được triển
khai.
Khoản 3 của Điều 61 nêu lên quan điểm, phát triển giáo dục theo vùng
miền. Do điều kiện lịch sử, bảy vùng miền ở nước ta hiện nay chưa phát
triển đồng đều, có nơi nhiều thuận lợi, có nơi nhiều khó khăn. Đường lối
chủ trương của Đảng, Nhà nước ta là làm cho tất cả các vùng miền đều
phát triển. Các vùng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ nói riêng
và ngành giáo dục nói chung rất hoan nghênh đường lối ưu tiên các vùng
khó khăn. Chúng tôi mong rằng, trong những năm tới, nước ta sẽ là nước
công nghiệp, hiện đại, văn minh. Các trường học ở các vùng kém phát
triển cũng được quan tâm như các vùng thuận lợi.
Làm sao trường lớp ở những vùng này hết cảnh tranh, tre nứa lá, đều
được kiên cố hóa theo chương trình Chính phủ đề ra từ năm 2004. Các em
học sinh khó khăn đều được cung cấp sách giáo khoa; các thầy cô giáo
công tác ở các vùng này cũng được tạo thêm điều kiện để thật sự an tâm
cống hiến. Trong khoản 3 Điều 61 nêu bật quan điểm của Đảng và Nhà nước
đối với những trẻ em khuyết tật và trẻ em nghèo khó. Để thực hiện khẩu
hiệu công bằng xã hội, trước hết Đảng và Nhà nước nên có những chính
sách cụ thể để thực hiện khoản 3 Điều 61. Giúp các em khuyết tật và
nghèo khó được học hành, ít nhất đến hết PTCS và có một nghề bảo đảm
cuộc sống.
Ba khoản cụ thể trong Điều 61, một lần nữa khẳng định triển vọng tốt
đẹp của nền giáo dục nước nhà do toàn Đảng, toàn dân với nòng cốt đội
ngũ nhà giáo và quản lý giáo dục, ra sức thực hiện, biến những điều của
Hiến pháp sửa đổi về giáo dục thành những chính sách và công việc cụ
thể, để giúp cho thế hệ trẻ có đầy đủ năng lực tiếp nối truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, thực hiện sứ mệnh vẻ vang bảo vệ và xây dựng đất nước
giàu mạnh và cường thịnh.
GS, VS, NGND PHẠM MINH HẠC/NhanDan