Thứ Ba, 7/5/2024
Vấn đề quan tâm
Chủ Nhật, 9/7/2017 9:9'(GMT+7)

Tự phê bình và phê bình theo tinh thần “Tự chỉ trích”, góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII

Là Tổng Bí thư của Đảng trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp, khi trong Đảng và phong trào cách mạng xuất hiện những khuynh hướng khác nhau, có thể gây chia rẽ, phân liệt Đảng, mất đoàn kết, thống nhất dẫn đến suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, với bút danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết cuốn sách Tự chỉ trích, do Nhà sách Dân chúng ấn hành tại Sài Gòn năm 1939. Cùng với thời gian, tinh thần Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự; là một giải pháp quan trọng, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ".  

1. Tự chỉ trích là một tác phẩm lý luận mẫu mực, trong đó đã nhận diện đúng, chỉ ra cụ thể những khuyết điểm, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng và vận động quần chúng; đồng thời khẳng định việc tất yếu, thường xuyên phải tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng, để "làm cho Đảng thành một Đảng chân chính".

Ra đời khi thế lực phản động ở Pháp và ở Đông Dương đang phản công các lực lượng dân chủ, ngay những trang đầu tiên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ khẳng định, Tự chỉ trích là để nhằm “phân tích xác thực hoàn cảnh, không bi quan hoảng hốt mà cũng không đắc chí tự mãn, để tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và tiến thủ”[1]. Nhấn mạnh tính tất yếu của Tự chỉ trích Bônsơvích - tự phê bình và phê bình trong Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ khẳng định, “đó không phải là công kích Đảng, mạt sát Đảng, đặt danh dự cá nhân lên trên tất cả quyền lợi của Đảng, của cách mạng”, mà là “Đảng vì còn trẻ tuổi nên còn phạm nhiều khuyết điểm, nhiều sự sai lầm; điều ấy Đảng luôn luôn tự chỉ trích thành thật và mạnh dạn công nhận để sửa đổi”. Tiến hành tự phê bình và phê bình là phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, vì rằng: “Đối với uy tín của Đảng, thì danh dự cá nhân mình không có nghĩa lý gì, hay nói đúng ra không có nữa, vì một người đảng viên cộng sản chỉ biết lấy uy tín, lấy danh dự chung của toàn Đảng làm danh dự của mình thôi”.

Vì vậy, “mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận, tự do chỉ chích, miễn là sự thảo luận luôn luôn theo tinh thần Bônsơvich, không làm giảm uy tín của Đảng”, nhằm làm cho kẻ thù không thể “hí hửng tìm ở đây một sự chia rẽ hay mầm bè phái gì giữa những người cộng sản mà uổng công. Vì sau khi thảo luận rồi, bao giờ trong hàng ngũ của chúng tôi, thiểu số cũng phải phục tùng đa số và chừng ấy chỉ có một ý chí duy nhất là ý chí của Đảng, nghìn người như một để thực hành ý chí ấy”[2]. Hơn nữa, “bao giờ sự chỉ trích cũng là tự chỉ trích bônsơvích, nghĩa là để huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng được càng thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái, chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”[3]. Cho nên tự chỉ trích cũng là công việc tất yếu để xây đựng khối đoàn kết, thống nhất của Đảng.

Với bọn tờrốtkít, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã lột mặt nạ phản dân, hại nước của chúng và chỉ rõ: “Bọn tờrốtkít, xét đến cốt tủy của chúng thì chúng chỉ gồm những cặn bã của phong trào nhóm họp nhau để chống cộng sản, chống cách mệnh, chia rẽ và phá hoại phong trào quần chúng”. Với tinh thần tôn trọng sự thật, thành khẩn, rút kinh nghiệm trong đấu tranh xây dựng Đảng và vận động quần chúng; uốn nắn những lệch lạc trong phong trào dân chủ như: chủ quan, tả khuynh, hữu khuynh, nội bộ mất đoàn kết, sai lầm trong phương thức vận động quần chúng..., Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Chúng ta không bao giờ có thể đổ hết những nguyên nhân thất bại cho việc quân thù đàn áp và cử tri chưa giác ngộ. Chúng ta phải biết nhìn nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính ta gây ra, chính ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm”[4]. Để thúc đẩy phong trào cách mạng đi đúng hướng, “bắt buộc ta phải suy xét, phải củ soát lại mà nhìn nhận những khuyết điểm” và “là người cách mạng, chúng ta đứng về lợi ích về công cuộc của dân chúng mà chỉ trích những khuyết điểm, những chỗ lừng chừng hoặc hèn nhất để đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ rộng rãi hơn”[5].

Thực tế cho thấy, “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm suy yếu Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại, nếu “đóng kín cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bề trong thì hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đó mới chính là là để cho quân thù chửi rủa, đó tỏ ra không phải là một đảng tiền phong cách mạng, mà là một đảng hoạt đầu cải lương”[6]. Do đó, “người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi họ hay phỉnh họ” và Đảng phải “cần làm cho các đảng viên giác ngộ, rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình, biết xoay phương hướng trong những hoàn cảnh khó khăn, nghiêm trọng, biết tự chỉ trích đúng và kịp thời những khuyết điểm, sai lầm: đồng thời Đảng phải tìm cách củ soát một cách thiệt sự hơn những hành động của mỗi đảng viên”[7].  

Thấu triệt rõ tinh thần Tự chỉ trích, để thấy rõ khuyết điểm, sai lầm và có quyết tâm, biện pháp sửa chữa, điều quan trọng nhất, theo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là những người cộng sản phải nhận rõ khuyết điểm, song việc nêu khuyết điểm của Đảng phải xuất từ động cơ xây dựng Đảng; và khi tiến hành đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng phải tuân theo nguyên tắc của Đảng, phải xuất phát từ lợi ích của Đảng. Và hơn bao giờ hết, “chúng ta phải chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ: Xu hướng “tả khuynh”, cô độc, nó muốn làm Đảng co bé, rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng và xu hướng thoả hiệp hữu khuynh, lung lay trước những tình hình nghiêm trọng nhãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, lăm le rời bỏ những nguyên tắc cách mệnh”[8].

Đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn phức tạp, khi mà Đảng vừa phải hoạt động bí mật, vừa hoạt động công khai; vừa thi hành sách lược mềm dẻo nhằm lôi kéo các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc, dân chủ rộng rãi, vừa phải giữ vững những nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin; vừa chống bệnh “tả khuynh”, vừa phải chống bệnh “hữu khuynh”, theo đuôi quần chúng, tác phẩm Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chính là nhằm: 1) Chỉ đạo triển khai cuộc đấu tranh nhằm lột mặt lạ bọn giả danh cách mạng tờrốtkít. 2) Nghiêm khắc lên án, chỉ trích những khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, hữu khuynh thỏa hiệp với bọn tờrốtkít. 3) Nghiêm túc triển khai tiến hành tự phê bình và phê bình nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng trên tinh thần “sửa lỗi và tiến thủ”, “không bi quan hoảng hốt mà cũng không đắc chí tự mãn”.

Là một văn kiện lịch sử quan trọng của Đảng,  tác phẩm Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã kịp thời chỉ ra khuyết điểm, uốn nắn những lệch lạc trong phong trào dân chủ, thực hiện tự phê bình và phê bình để tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong ý chí và hành động trong Đảng, đóng góp có giá trị vào kho tàng lý luận của Đảng ta. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tác phẩm Tự chỉ trích và một số bài báo trước đó của anh Cừ đã tạo điều kiện cho tư tưởng đúng đắn của Đảng đi sâu vào đông đảo quần chúng cách mạng, nhất là trong tầng lớp trí thức. Tư tưởng công khai tự chỉ trích táo bạo này của anh Cừ đến nay chúng ta phải học tập, phải coi đó là một kinh nghiệm quý”[9]. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đang đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, giá trị lý luận và thực tiễn, nhất là tinh thần tự phê bình và phê bình trong tác phẩm Tự chỉ trích càng có ý nghĩa sâu sắc.

2. Xuyên suốt trong lịch sử gần 90 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là vấn đề quan trọng. Đảng đã từng có những nghị quyết chuyên đề về công tác này, trong đó Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII  “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, đề cập rất rõ những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.

Theo đó, Nghị quyết nhấn mạnh: Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái. Trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao… Đặc biệt, khi nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra hạn chế: “5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng” và nêu rõ nhóm giải pháp đầu tiên là: “1. Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình”.

Coi tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và tất yếu của Đảng, để “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi” như Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã nêu trong tác phẩm Tự chỉ trích; chú trọng "thang thuốc hữu hiệu" tự phê bình và phê bình như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên mỗi người mỗi ngày phải thiết thực  tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”[10], Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII yêu cầu: “5) Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Theo tinh thần Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, việc phát huy tinh thần dân chủ, thảo luận công khai, dám nói, dám viết, dám đấu tranh, dám nhận lỗi với tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong sinh hoạt Đảng để đi tới sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hết sức quan trọng và cần thiết; cần phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ và có sự kiểm tra, đôn đốc, giám sát. Bài học mang tính nguyên tắc này đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII tiếp tục khẳng định và yêu cầu mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cơ sở đảng từ Trung ương đến địa phương nghiêm túc thực hiện, trong đó những cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi cơ quan, địa phương, đơn vị càng phải phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, nói đi đôi với làm trong mọi mặt công tác và cuộc sống đời thường.

Đặc biệt, để việc tự phê bình và phê bình đạt được hiệu quả, có ý nghĩa thiết thực, khi tiến hành kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và tiếp tục là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cơ sở đảng không được chủ quan, nóng vội song cũng không được máy móc, cứng nhắc trong việc xử lý những khuyết điểm của mỗi cá nhân và của tập thể. Khi đã xác định được  khuyết điểm, phải có kế hoạch và biện pháp sửa chữa kịp thời và có sự giám sát, kiểm tra, đánh giá của cấp ủy. Kết quả của việc tự kiểm điểm và kiểm điểm phải nhằm mục đích xây dựng mỗi tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, để cán bộ, đảng viên gương mẫu và đoàn kết tốt hơn, gắn bó với nhân dân mật thiết hơn, Đảng ta ngày càng vững mạnh hơn, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị tốt hơn, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Kỷ niệm 105 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ôn lại để thấm sâu, kiên quyết thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần của Tự chỉ trích cũng chính là thêm một lần các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương và mọi cán bộ, đảng viên nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, ý nghĩa,  nguyên tắc, nội dung và hình thức trong tự phê bình và phê bình. Tiếp tục thực hiện và phát huy dân chủ, tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, mỗi cơ quan, địa phương, đơn vị cần phải chú trọng thực hiện tự phê bình và phê bình, đưa tự phê bình và phê bình trở thành nền nếp trong sinh hoạt Đảng. Trong đó, kết hợp chặt chẽ giữa tự phê bình và phê bình trong Đảng với sự tham gia, đóng góp ý kiến của quần chúng ở mỗi cơ quan, địa phương, đơn vị và cả nơi cư trú. Đồng thời, gắn tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra giám sát và xử lý kỷ luật của Đảng. Cùng đó, gắn tự phê bình và phê bình với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; với việc nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt để tạo một bước chuyển mới trong công tác xây dựng Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

TS. Văn Thị Thanh Mai
-----------
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr. 620.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr. 621.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr. 623-624.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.624-625.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.639.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.624.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.623.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.6, tr.645.

[9] Nguyễn Văn Cừ, một Tổng Bí thư tài năng của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1997, tr.24.

[10]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, t.5, tr.233.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất