Thứ Sáu, 22/11/2024
Vấn đề quan tâm
Thứ Hai, 29/1/2018 15:12'(GMT+7)

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - tính khoa học, hiện thực của chủ nghĩa xã hội trong tư duy của C.Mác và Ph.Ăngghen


Những năm 40 của thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen với trí tuệ - tư duy khoa học và mục tiêu chính trị rõ ràng đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản để đi tới chủ nghĩa cộng sản, đã nổi lên như lãnh tụ hàng đầu của giai cấp vô sản trên thế giới. Chủ nghĩa cộng sản trở thành học thuyết lý luận được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng dựa trên những cứ liệu khoa học từ sự nghiên cứu sâu sắc lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của phương thức sản xuất trong lịch sử, nhất là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với sự phát triển chưa từng có của lực lượng sản xuất, của đại công nghiệp và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ lao động làm thuê và sở hữu tư liệu sản xuất của cải vật chất mà giai cấp tư sản chiếm đoạt từ giai cấp vô sản làm thuê. C.Mác, Ph.Ăngghen phát hiện quy luật của chủ nghĩa tư bản và chỉ rõ tính tất yếu của cách mạng vô sản để xóa bỏ xã hội tư bản, xây dựng xã hội mới là CNXH, chủ nghĩa cộng sản.

Khi chủ nghĩa cộng sản trở thành học thuyết lý luận có giá trị khoa học, không còn sự chi phối của CNXH, chủ nghĩa cộng sản không tưởng-phê phán trước đó thì cần thiết phải đặt chủ nghĩa cộng sản trên mảnh đất hiện thực. Để hiện thực hóa lý tưởng cao cả của chủ nghĩa cộng sản cần phải giác ngộ giai cấp vô sản, phát triển một lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử đánh đổ chủ nghĩa tư bản và sáng tạo xã hội mới. Lực lượng xã hội ấy cần tổ chức ra chính đảng để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh làm biến đổi xã hội. Đảng chính trị của giai cấp vô sản gồm những người ưu tú, tiên tiến nhất của giai cấp phải xây dựng Cương lĩnh chính trị đầy đủ, toàn diện.

Từ tháng 6-1847, Ph.Ăngghen tham gia tích cực vào công việc của Đại hội lần thứ nhất của Liên đoàn những người cộng sản họp ở London (Anh). Đại hội đã thông qua Điều lệ và thay khẩu hiệu “Tất cả mọi người đều là anh em” bằng khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Trong tháng 10 và 11-1847, Ph.Ăngghen viết tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản với 25 câu hỏi và trả lời. Tại Đại hội lần thứ hai của Liên đoàn (10-1847), C.Mác và Ph.Ăngghen được giao soạn thảo một cương lĩnh lý luận và thực tiễn của Đảng có đầy đủ chi tiết để đưa ra công bố. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo với tính cách là Cương lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản và được công bố lần đầu ở London vào tháng 2-1848. Đó là cương lĩnh vĩ đại nhất của chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản và con đường xã hội chủ nghĩa.

Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và sự phát triển của đại công nghiệp, xã hội tư bản định hình rõ đối kháng giai cấp. “Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”(1). Từ khi giai cấp tư sản đánh đổ chế độ quân chủ phong kiến, nhất là “giai cấp tư sản, từ khi đại công nghiệp và thị trường thế giới được thiết lập, đã độc chiếm hẳn được quyền thống trị chính trị trong nhà nước đại nghị hiện đại. Chính quyền nhà nước hiện đại chỉ là một ủy ban quản lý những công việc chung của toàn thể giai cấp tư sản”(2).

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”(3); “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế kỷ trước gộp lại”(4).

Trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận rõ bản chất bóc lột tàn bạo của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản làm thuê. Sự bóc lột và áp bức đó làm cho mâu thuẫn, đối kháng giai cấp giữa vô sản và tư sản ngày càng sâu sắc tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp chống lại sự bóc lột, cai trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ trật tự xã hội hiện thời để xây dựng một xã hội mới.

Giai cấp vô sản ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, ngày càng nhận rõ bản chất của giai cấp tư sản. Đối với giai cấp vô sản, giai cấp tư sản đã sử dụng những vũ khí cưỡng bức, bóc lột. Chính phương thức sản xuất tư bản đã làm cho giai cấp vô sản phát triển; giai cấp tư sản lớn lên thì giai cấp vô sản cũng phát triển theo. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính giai cấp tư sản.

Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(5).

C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời. Họ bắt đầu bằng các cuộc đấu tranh tự phát, kể cả đập phá máy móc, đốt công xưởng v.v.. “Nhưng sự phát triển của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản tăng thêm và họ nhận rõ lực lượng của mình hơn”(6).

Không chỉ nhận rõ lực lượng của mình mà giai cấp vô sản phải được tập hợp và tổ chức lại và được giác ngộ tư tưởng, ý thức chính trị. “Sự tổ chức như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng”(7). Giai cấp vô sản phải có một chính đảng của mình - Đảng Cộng sản để lãnh đạo cuộc đấu tranh  của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận rõ sức mạnh và tính chất cách mạng của giai cấp vô sản: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(8).

C.Mác và Ph.Ăngghen đã thấy rõ: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”(9). Nhưng sự sụp đổ hay thắng lợi đó không tự nó đến. Cần thiết phải xây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản tức là tổ chức của những người cộng sản (Đảng Cộng sản). Đó là bộ phận tiên tiến của giai cấp vô sản, “hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.

Đảng Cộng sản phải đề ra Cương lĩnh (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là Cương lĩnh đó). Cương lĩnh xác định mục tiêu trước mắt là “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”(10). Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Để làm điều đó cần phải trang bị nhận thức lý luận, giác ngộ chính trị cho giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản tự nó không có hiểu biết về tư tưởng, lý luận. Những người trí thức hữu sản như C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu lịch sử và xã hội tư bản, xây dựng học thuyết lý luận mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là nền móng, truyền bá vào phong trào công nhân, giác ngộ họ để tiến hành sự nghiệp đấu tranh một cách tự giác.

Giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản phải được trang bị lý luận về đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Thấu hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, thấy rõ sự thay thế nhau của các hình thức kinh tế-xã hội và sự phát triển tất yếu của con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản, tổ chức thành giai cấp thống trị để tạo dựng xã hội mới. Cách mạng vô sản dẫn tới xác lập và xây dựng chế độ XHCN. C.Mác và Ph.Ăngghen đòi hỏi nhận thức CNXH trên cơ sở khoa học. Quan niệm của các ông không chỉ thoát khỏi nhận thức của CNXH không tưởng - phê phán, mà các ông còn phê phán những trào lưu của CNXH phong kiến, CNXH tiểu tư sản, CNXH bảo thủ hay CNXH tư sản.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra 10 biện pháp để thực hiện cách mạng XHCN. Những quan điểm lý luận và những chỉ dẫn về biện pháp mang ý nghĩa khoa học và định hướng cơ bản. Các ông cho rằng những biện pháp đó áp dụng phổ biến ở những nước tiên tiến. “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”(11). Điều đó đòi hỏi những đảng cộng sản phải nghiên cứu sâu sắc và sáng tạo, không coi đó là công thức có sẵn, không giáo điều. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản năm 1872 đã nêu rõ:

“Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối Chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm năm qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức thành chính đảng”(12).

Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã là kiểu mẫu của tư duy khoa học, nhận thức lý luận luôn luôn xuất phát từ hiện thực lịch sử, từ sự phát triển của thực tiễn. Đó cũng là chỉ dẫn sâu sắc về phương pháp luận khoa học trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Sau này, trong lời tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph.Ăngghen lại nhấn mạnh điều đó.

Tính tất yếu của cách mạng vô sản và con đường XHCN được trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có ý nghĩa chiến lược lâu dài cho đến ngày nay. Tính tất yếu đó dựa trên những điều kiện hiện thực do chính lịch sử tạo ra. Một là, giai cấp công nhân công nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ là lực lượng sản xuất to lớn và cơ sở xã hội rất quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Lực lượng đó có vai trò quyết định trong cuộc đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, chống sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản và giai cấp vô sản ngày càng cách mạng hóa. Hai là, sự ra đời của học thuyết Mác - học thuyết lý luận và cách mạng dựa trên nhận thức khoa học ngày càng xâm nhập, thức tỉnh, giác ngộ và định hướng đi đúng đắn cho giai cấp vô sản trên con đường đấu tranh tự giải phóng. Ba là, giai cấp vô sản được trang bị lý luận và từ kinh nghiệm đấu tranh thực tiễn đã tổ chức ra đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Đảng của giai cấp vô sản đề ra Cương lĩnh để dẫn dắt phong trào vô sản thực hiện mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài nhằm xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.

Học thuyết Mác không dừng lại ở học thuật mà đã đề cập và giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và hướng vào mục tiêu cao cả giải phóng con người. Tư duy và khát vọng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã vượt thời đại và mang ý nghĩa hiện thực. Trong Tuyên ngôn có nhiều vấn đề được các ông đề cập đã vượt qua thời đại mà các ông sống và hiện hữu, phát triển cho đến ngày nay. Chẳng hạn, vấn đề cách mạng công nghiệp, sự phát triển của đại công nghiệp và thị trường thế giới. Các ông cho rằng, tổ chức công nghiệp theo lối phong kiến, phường hội không còn có thể thỏa mãn những nhu cầu của những thị trường mới: “Các thị trường cứ lớn lên không ngừng, nhu cầu luôn luôn tăng lên. Ngay cả công trường thủ công cũng không thỏa mãn được nhu cầu đó nữa. Lúc ấy, hơi nước và máy móc dẫn đến một cuộc cách mạng trong công nghiệp...  Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới”(13).

“Với sự phát triển của giai cấp tư sản, tự do buôn bán, thị trường thế giới, sự đồng đều của sản xuất công nghiệp và những điều kiện sinh hoạt thích ứng với nền sản xuất ấy thì những sự cách biệt dân tộc và những sự đối lập giữa nhân dân các nước cũng ngày càng mất đi”(14).
Những dự báo thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen từ nửa đầu của thế kỷ XIX đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, tạo ra nguồn của cải vật chất khổng lồ. Thị trường thế giới mở rộng và phát triển chưa từng có. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống loài người. Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu mà mỗi quốc gia không thể tự giải quyết được đòi hỏi phải có sự hợp tác của tất cả các quốc gia.

Vấn đề dân tộc và đấu tranh dân tộc đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thức sâu sắc cùng với lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”(15). Các ông cho rằng “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”(16).

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chuyển mạnh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, ra sức mở rộng thị trường thế giới, xâm chiếm các dân tộc nhỏ yếu, biến thành thuộc địa của chúng. Vấn đề dân tộc và thuộc địa trở thành vấn đề lớn của thời đại. Cuộc đấu tranh giải phóng của các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, ngày càng phát triển mang tính cách mạng và gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng vô sản. V.I.Lênin là người đặc biệt chú trọng phát triển học thuyết Mác trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, quan tâm tổng kết và định hướng cho sự phát triển của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa. Thế kỷ XX đã chứng kiến phong trào giải phóng dân tộc như một dòng thác cách mạng. Các dân tộc đã đứng lên đấu tranh giành độc lập và có những nước đã và đang phát triển theo con đường XHCN. Ngày nay, vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc được các nước đặc biệt coi trọng trong điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa. Diện mạo thế giới ngày nay càng làm nổi bật quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

Những vấn đề về tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền và cả quan hệ gia đình được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra với một thái độ khoa học và các vấn đề đó phát triển theo những biến đổi không ngừng của lịch sử.

Về vai trò và ý nghĩa của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, V.I.Lênin đã nêu rõ: “Cuốn sách  nhỏ ấy có giá trị bằng cả một pho sách lớn: tinh thần của nó cho đến nay còn cổ vũ và thúc đẩy toàn bộ giai cấp vô sản có tổ chức và chiến đấu của thế giới văn minh”. V.I.Lênin cho rằng đó là “sách gối đầu giường của mọi công nhân giác ngộ”(17). Hướng theo tư tưởng của Tuyên ngôn, V.I.Lênin và Đảng của Người đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917) hiện thực hóa mục tiêu và con đường XHCN. CNXH hiện thực đã có những thành tựu và bước tiến to lớn trong thế kỷ XX. Do những sai lầm chính trị đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Các nước kiên định con đường XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Lào,... tiếp tục cải cách, đổi mới giành được những thành tựu to lớn. Kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-2017), những người cộng sản trên thế giới khẳng định đó là mốc son chói lọi đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ lên CNXH.

Khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời (2-1848), Việt Nam là nước phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Mười năm sau (1-9-1858), quân Pháp xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Từ thân phận thuộc địa, nô lệ, nhân dân Việt Nam nhiều lần nổi dậy đấu tranh giành độc lập nhưng đều thất bại. Đầu thế kỷ XX, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trên con đường tìm con đường tự giải phóng đã tiếp thu học thuyết cách mạng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, khẳng định con đường đấu tranh đúng đắn. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) đề ra Cương lĩnh đúng đắn. Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Lãnh đạo các cuộc kháng chiến cứu nước oanh liệt vì độc lập, thống nhất hoàn toàn. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Những thành tựu to lớn của Việt Nam là sự hiện thực hóa và chứng minh tính đúng đắn của tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định:

“Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(18).
_______________________
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (13), (14), (15), (16) C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.597, 599, 599, 603, 605, 607, 609, 610, 613, 615,627, 598, 624, 611, 623-624.
(12) C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.128. 
(17) V.I.Lênin Toàn tập, t.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53. 
(18) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.69.
 
PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất