Không lo ngại sao được khi quan hệ giữa hai miền
Triều Tiên vẫn ở trong tình trạng chiến tranh kể từ sau Hiệp ước đình
chiến Bàn Môn Điếm 27/7/1953 và câu chuyện riêng tư của hai miền Triều
Tiên vẫn luôn có sự can thiệp của nhiều phía bên ngoài.
Ngay
trong những ngày đầu tiên của năm 2013, bầu không khí thù địch trên bán
đảo Triều Tiên lại được hâm nóng bởi Nghị quyết 2087 (ngày 22/1/2013)
của Hội Đồng Bảo An (LHQ). Theo Nghị quyết 2087, HĐBA sẽ mở rộng các
biện pháp trừng phạt CHDCND Triều Tiên nhằm lên án vụ phóng tên lửa của
nước này hôm 12/9/2012.
Khác với thái độ tương đối mềm mỏng hai
lần trước, (vào các năm 2006 và 2009 khi HĐBA thông qua hai nghị quyết
1718 và 1874 trừng phạt Triều Tiên vì hai vụ thử hạt nhân trong lòng
đất), ngay lập tức, qua Hãng thông tấn Trung ương Triều Tiên- KCNA, Ủy
ban thống nhất hòa bình tổ quốc Triều Tiên tuyên bố: “Cấm vận đồng nghĩa
với chiến tranh và là lời tuyên chiến đối với chúng ta”, đồng thời còn
khẳng định “sẽ sử dụng biện pháp vũ lực mạnh mẽ” trừng phạt Hàn Quốc nếu
nước này tham gia trực tiếp vào lệnh trừng phạt mở rộng của LHQ.
Phản
ứng quyết liệt của CHDCND Triều Tiên lần này có thể xuất phát từ hai
chi tiết đặc biệt liên quan tới bối cảnh ra đời nghị quyết 2087: Bắt đầu
từ tháng 1/2013, Hàn Quốc tiếp nhận vai trò chủ tịch HĐBA và Trung Quốc
lần đầu tiên công khai phản đối vụ phóng tên lửa của Triều Tiên.
Ngày
27/1/2013, tình trạng căng thẳng trong khu vực bị đẩy lên đỉnh điểm khi
nhà nước Triều Tiên thông báo sẽ tiến hành vụ thử hạt nhân lần ba (được
cho là có thể vào ngày 16/02 này, nhân dịp sinh nhật cố Chủ tịch Kim
Jong Il). Theo cách lý giải của Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un: “Đây là
việc làm cần thiết theo yêu cầu của nhân dân”.
Nếu căn cứ vào hồ
sơ của điểm nóng bán đảo Triều Tiên, chí ít là từ năm 1993 (thời điểm
nhà nước Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp định cấm thử vũ khí hạt nhân
NPT) đến nay, thì có lẽ tính chu kỳ của tình trạng căng thẳng đã tạo nên
sự tự tin như một dạng phản xạ có điều kiện của các nước trong khu vực:
khẩu chiến, tập trận, thậm chí làm chìm tàu hay đấu pháo v.v. nhưng
chiến tranh thì “còn lâu” mới xảy ra.
Xét về lý thuyết, trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, không chỉ hai miền Triều
Tiên mà cả những nước có liên quan mật thiết tới tình hình bán đảo Triều
Tiên như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, đặc biệt là Mỹ, cũng đều mong muốn
có được sự ổn định tại đây. Đơn giản đó là điều kiện tiên quyết giúp các
nước có thể phục hồi.
Tuy nhiên, thực tế đang diễn ra lại chứng
minh rằng bán đảo Triều Tiên là một ngoại lệ, thậm chí nó còn giống với
“một kịch bản đã được lập trình” từ trong tiềm thức. Ta hãy lắng nghe
các bên giải trình cho hành động của họ.
Ngay sau khi Chiến tranh
lạnh kết thúc, chính phủ Triều Tiên đã tuyên bố rõ ràng quan điểm chỉ có
sự tương xứng về sức mạnh quân sự mới có thể đối phó được chính sách
thù địch từ phía Mỹ cũng như Hàn Quốc. Bắt đầu từ tuyên bố rút khỏi NPT,
phóng thử tên lửa cho tới thử hạt nhân, Triều Tiên dường như đã đạt
được mong muốn: Sự tự tin về khả năng có thể đối phó với mọi kẻ thù.
Những lệnh trừng phạt của LHQ, có lẽ cũng chỉ là những thiệt hại có thể
chấp nhận được bởi có thành công nào mà chẳng phải trả giá. Tuy nhiên,
những hoạt động tiếp theo của Triều Tiên kể từ sau tuyên bố ngày
10/2/2005 về sở hữu vũ khí hạt nhân cho thấy, chính phủ nước này chỉ
dừng lại ở việc sử dụng vũ khí hạt nhân như một công cụ răn đe. Không ít
lần các nhà lãnh đạo Triều Tiên khẳng định sẽ dừng hoàn toàn chương
trình hạt nhân nếu Mỹ đưa ra cam kết hòa bình, trước hết là việc ký kết
một hiệp định hòa bình.
Người Mỹ thì lại luôn cho rằng, Triều Tiên
không có quyền sở hữu vũ khí hạt nhân, bất kể nước này có tham gia NPT
hay không, và chỉ ký hiệp định hòa bình khi Triều Tiên ngừng chương
trình hạt nhân. Chính sách của các chính quyền B. Clinton, G. Bush rồi
đến B. Obama đều chỉ hướng tới việc buộc chính phủ Triều Tiên hủy bỏ
hoàn toàn chương trình hạt nhân. Ngay cả những chương trình viện trợ
nhân đạo cho Triều Tiên cũng luôn được gắn với câu chuyện vũ khí hạt
nhân của nước này như một thứ đi kèm có điều kiện.
Có một thực tế
thật trớ trêu là, trong các vòng đàm phán sáu bên (kể từ lần đầu tiên
năm 2003 cho đến lúc tạm ngưng năm 2007), các nước tham gia như Hàn
Quốc, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc chưa bao giờ đạt được sự thống nhất
thật sự trong vấn đề Triều Tiên. Thêm nữa là sự bất bình đẳng trong cách
ứng xử của cộng đồng quốc tế lại càng khiến cho khả năng kiến tạo hòa
bình trên bán đảo Triều Tiên ngày một xa vời. Ngày 31/1 vừa qua, Hàn
Quốc cũng phóng tên lửa KSLV -1 nhưng lại được cho là bình thường và
chẳng có một nghị quyết nào của HĐBA ra đời theo kiểu NQ 2087, bất chấp
tình hình đang hết sức căng thẳng.
Những điều này có lẽ mới là
nguyên nhân chính khiến cho các lệnh trừng phạt của HĐBA mất thiêng đối
với Triều Tiên: Nhu cầu phát triển kinh tế dường như vẫn chưa đủ khả
năng khắc phục khiếm khuyết này.
Trong suốt mấy chục năm qua, do
cách nhìn nhận vấn đề trái ngược nhau, thậm chí đối kháng nhau, lòng tin
đối với nhau của các bên liên quan chưa bao giờ xuất hiện, và hệ quả
tất yếu là tất cả cùng rơi vào một vòng tròn luẩn quẩn: căng thẳng và
đối thoại. Khi mà các bên vẫn còn giữ quan niệm “tiến thoái lưỡng nan về
an ninh” (quan niệm của các nhà hiện thực chính trị cho rằng những hành
động tự vệ chính đáng, như tăng cường binh bị của một quốc gia vô hình
chung lại luôn là mối đe dọa đối với các quốc gia khác) thì có lẽ vòng
luẩn quẩn này sẽ vẫn tiếp tục trên bán đảo Triều Tiên.
TS ĐỖ SƠN HẢI
Nguồn: Nhân Dân