Trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, kinh
tế Việt Nam 11 tháng và triển vọng cả năm 2014 đã có bước vươn lên trong
khó khăn, đạt được những tiến bộ rõ nét đáng ghi nhận, thực hiện tốt
hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2014 - phân tích của GS. TS Nguyễn
Quang Thái.
Tại tháng cuối của năm 2014, có thể ghi nhận một số điểm sáng quan trọng
trong năm 2014, đồng thời, với nhiệm vụ năm cuối toàn kỳ kế hoạch
2011-2015, cũng cần nêu ra những yếu kém phải ra sức khắc phục, những
khó khăn to lớn cần vượt qua và nhấn mạnh những nhiệm vụ quan trọng cần
mạnh mẽ triển khai trong năm 2015 và các năm tiếp theo.
Những điểm sáng đáng ghi nhận - ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát
Khi đặt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, GDP tăng trưởng 5,8% và giảm
lạm phát CPI xuống 7% năm 2014, Quốc hội - vào cuối năm 2013 - đã ghi
nhận những tiến bộ trong điều hành kinh tế năm 2013 và lường trước những
khó khăn có thể vấp phải. Dường như, diễn biến của năm 2014 đã xuất
hiện nhiều hơn các nhân tố tích cực cả chủ quan và khách quan, góp phần
làm xoay chuyển cục diện, càng về tháng cuối năm càng diễn biến theo
hướng thuận lợi hơn.
Đầu tiên là về lạm phát. Mức tăng trưởng khá đạt được trong
điều kiện lạm phát thấp, khoảng dưới 3%, so với kế hoạch là 7%. Tin vui
này có phần “bất ngờ”, do lạm phát đạt thấp nhất trong hơn 10 năm?
Không, đó là kết quả tất yếu của quá trình liên tục duy trì mức giá ổn
định, trong khi tôn trọng các quan hệ cung cầu trên thị trường!
Năm 2014 có hai nhân tố làm cho mức tăng giá trở nên “âm” là lương thực
thực phẩm và năng lượng. Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp được mùa,
giá lương thực thực phẩm gần như không tăng, trong khi giá năng lượng,
chủ yếu là giá dầu mỏ thế giới, giảm mạnh 20-30% trong năm, làm giá xăng
dầu trong năm giảm 10 lần tới 20%. Giá điện cũng giữ mức giá bình quân
từ tháng 8/2013, làm cho CPI cả năm sẽ đạt dưới 3%. Nếu loại trừ yếu tố
giao động “mùa vụ” của năng lượng và lương thực thực phẩm, chỉ số CPI
“lõi” (core CPI) cũng chỉ khoảng 3-4%, là mức thấp hơn kế hoạch. Tuy
nhiên, mức CPI này của Việt Nam vẫn là cao hơn mức trung bình của nhiều
nước trong khu vực. Dù năm tới giá năng lượng thế giới có thể giảm tiếp,
nhưng giá lương thực thực phẩm khó giảm mạnh do nông nghiệp ít khi được
mùa liên tiếp. Vì vậy, mục tiêu kế hoạch được Quốc hội giao cho năm
2015 là 5%, phản ánh quan điểm thận trọng, coi trọng các vấn đề ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện tốt cho quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế đạt kết quả vững chắc. Điều đáng ghi nhận là mức lạm
phát thấp đạt được, nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng khá hơn dự kiến trong
các lĩnh vực cho thấy không có dấu hiệu giảm phát như có một số cảnh
báo.
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt năm 2014, nhất là các
tháng đầu năm, tình hình kinh tế chưa có chuyển biến mạnh. Một số nhà
kinh tế trong Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân 4/2014 đã đưa một số nhận định
có phần bi quan,[1]
thậm chí có nhà kinh tế đã nhận định kinh tế khó thoát đáy trong ngắn
hạn. Luồng suy nghĩ này cũng có đâu đó trong phát biểu tại Diễn đàn Kinh
tế mùa Thu 10/2014, mà ngay một nhà kinh tế lạc quan cũng có câu nói
nổi tiếng là nền kinh tế đang “vật vã” đi lên. Tuy nhiên, tại thời điểm
cuối năm 2014, có thể nhìn thấy bức tranh kinh tế dường như màu sáng
nhiều hơn. Đà tăng trưởng kinh tế có chuyển biến tốt trong tất cả các
ngành, lĩnh vực chủ yếu; tốc độ tăng trưởng đều cao hơn cùng kỳ các năm
trước. Kết quả là đã có chuyển biến tích cực, với mức tăng khá ở cả phía
“cung” từ các ngành sản xuất GDP và ở phía “cầu” cuối cùng của GDP với
các thành tố tiêu dùng - đầu tư và xuất khẩu ròng.
Về phía “cung - sản xuất” GDP trong các ngành kinh tế: Khu
vực dịch vụ tiếp tục tăng khá, tổng mức bán lẻ 11 tháng tăng 11,1% (trừ
yếu tố giá tăng 6,5%, cùng kỳ tăng 5,5%), du khách nước ngoài 11 tháng
đạt trên 7,2 triệu khách tăng 5,4% so cùng kỳ (dù đã bị giảm mạng giữa
năm vì sự kiện giàn khoan 981). Khu vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp
mưa gió thuận hòa, với năng suất tăng, sản lượng lúa cả năm tăng hơn 800
nghìn tấn, rau quả đạt sản lượng khá, sản lượng thủy sản 11 tháng đạt
gần 5,74 triệu tấn, tăng 4,8% so cùng kỳ. Điểm sáng năm 2014 là sản xuất
công nghiệp có tăng trưởng khá, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo.
Phân ngành này đã tăng đạt 8,6% so với cùng kỳ, trong khi năm 2013 chỉ
tăng 7,1%. Sản xuất và phân phối điện tăng 11,7% (cùng kỳ tăng 8,6%),
công nghiệp khai khoáng tăng 2,7% (cùng kỳ giảm 0,5%). Tất cả các chỉ
tiêu này đều góp vào mức tăng IIP 5,3% so với tháng 10 và tăng 11,1% so
cùng kỳ (năm 2013 chỉ tăng 5,6% so năm 2012). Do đó, các chỉ tiêu dự báo
kinh tế đều được điều chỉnh tăng, đạt trên 5,8%. Ngay Báo cáo mới nhất
của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cũng đã điều chỉnh mức tăng GDP
từ 5,4% lên 5,6% cho năm 2014, kèm theo lời bình luận khích lệ rằng,
nếu những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Chính phủ
tiếp tục được xúc tiến mạnh mẽ thì kết quả tăng trưởng còn có thể cao
hơn.
Về phía “cầu cuối cùng” của nền kinh tế cũng có tín hiệu tốt. Xuất khẩu
cả nước tăng đạt mức kỷ lục, đạt mốc 150 tỷ USD, trong đó 11 tháng ước
đạt 137 tỷ USD. Đó là mức tăng khá không chỉ của khu vực FDI với nhiều
sản phẩm mới, quy mô lớn, tăng 14,1%, mà cả của các doanh nghiệp xuất
khẩu nội địa cũng tăng 13% khi cùng kỳ chỉ tăng 3,6%. Mức nhập khẩu cả năm ước đạt 148,5 tỷ USD, xuất siêu
1,5 tỷ USD, hay 1% giá trị xuất khẩu, đạt xuất khẩu thuần dương, cùng
với đầu tư và tiêu dùng cuối cùng tiếp tục tăng khá đã cho phép khẳng
định mức tăng trưởng GDP không những có thể đạt mức kế hoạch 5,8% mà có
thể còn đạt cao hơn 5,9% một chút. Thật vậy, về mặt tiêu dùng cuối cùng,
dù chưa có báo cáo chi tiết, nhưng số liệu về tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng,
một chỉ tiêu phản ánh gần sát mức tiêu dùng cuối cùng tiếp tục tăng về
lượng, sau khi trừ yếu tố tăng giá đã tăng 6,5%, phản ánh mức tiêu dùng
cuối cùng đã tăng lên chút ít trong khó khăn, khi giá cả tiêu dùng tiếp
tục ổn định ở mức thấp. Về mặt đầu tư, cùng với giải ngân khá
11 tháng của ODA (gần 5 tỷ USD), FDI (11,2 tỷ USD) và đầu tư công tập
trung hơn vào các khu vực hạ tầng thiết yếu, trong điều kiện tái cơ cấu
đầu tư công. Khu vực đầu tư ngoài Nhà nước cũng có chuyển biến tích cực,
từ cả vốn tự có và tín dụng, làm cho các cam kết đầu tư của các doanh
nghiệp mới đăng ký tăng 8,9% về vốn, nhiều doanh nghiệp tạm dừng đã quay
lại sản xuất kinh doanh. Các cuộc khảo sát với quy mô 1.000 phiếu/kỳ
vào tháng 8/2014 của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã cho thấy đầu
tư hộ gia đình tăng trở lại, tăng 7 điểm % so với tháng 2/2014 và tăng
18 điểm % so với tháng 7/2013. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế đã
được đẩy lên vượt tỷ lệ 10% trong 11 tháng (tăng 15% so cùng kỳ), hứa
hẹn cả năm đạt 12-14% như kế hoạch, tiếp thêm vốn đều đặn cho nền kinh
tế. Có thể ước lượng, vốn đầu tư toàn xã hội đạt cao hơn 30% GDP.
Từ cả hai mặt cung-cầu, cũng như đánh giá kết quả cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh được triển khai mạnh mẽ từ đầu năm 2014 (như
Nghị quyết 19-CP tháng 3/2014 về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh), mang lại kết quả tích cực, cơ quan thống
kê Trung ương đưa ra đánh giá, GDP năm 2014 tăng khoảng 5,8% và có thể
tăng cao trên 5,9%, nếu không có những biến động bất thường vào những
ngày cuối năm.
Với kết quả tăng trưởng này, có thể thấy, các đánh giá có phần bi
quan đầu năm, mang tính cảnh báo rất cần thiết, đã có tác động tư vấn
thiết thực, tạo sự chuyển biến trong các ngành và lĩnh vực.
Liên quan tới các chỉ tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, bên cạnh
các chỉ tiêu về lạm phát thấp, các chỉ tiêu về cân đối ngân sách đạt
khá: Trong 11 tháng đã hoàn thành nhiệm vụ thu cả năm, mức chi đạt thấp
hơn kế hoạch, nên triển vọng cả năm vẫn giữ được bội chi ở mức kế hoạch,
5,3%GDP. Thị trường tài chính – tiền tệ ổn định, lãi suất có xu hướng
giảm, tín dụng tăng khá. Tỷ giá được điều chỉnh nhẹ, tạo mức khá ổn định
trong điều kiện xuất siêu. Cán cân thành toán tổng thể thặng dư ở mức
cao trên 11 tỷUSD, trong khi đến cuối tháng 11/2014 tổng phương tiện
thanh toán M2 tăng gần 13% so với cuối năm 2013, bảo đảm guồng máy kinh
tế hoạt động trôi chảy.
Khó khăn vẫn còn nhiều - mối lo về nợ xấu, doanh nghiệp và việc làm
Bên cạnh các tín hiệu lành mạnh, một số lĩnh vực cũng còn hạn chế đang nổi lên cần tập trung chỉ đạo quyết liệt.
Báo cáo của Chính phủ với Quốc hội cho thấy, nếu không kể các khoản
nợ đã được sắp xếp lại, thì vẫn còn tỷ lệ nợ xấu khá lớn, đòi hỏi phải
đưa về mức bình thường là 3% vào cuối năm 2015. Nợ xấu cũng liên quan
đến nợ của khối các DNNN mới được Chính phủ công bố lên tới 1,5 triệu tỷ
đồng, với tiến trình cổ phần hóa còn chậm, đang gây cản trở cho quá
trình phục hồi sản xuất kinh doanh của các DNNN. Mặc dù vậy, những sáng
kiến đảo nợ, kể cả bán trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế đạt
kết quả cao vừa qua, thời hạn 10 năm, lãi suất dưới 5% với số khách chào
mua lên tới 10 lần trị giá chào bán, cho thấy sự tín nhiệm của các nhà
đầu tư quốc tế vào triển vọng kinh tế Việt Nam cần được nuôi dưỡng một
cách thiết thực.
Sức khỏe của các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế, nhất là của khu
vực tư nhân trong nước là vấn đề đang được các nhà nghiên cứu và hoạch
định chính sách rất quan tâm.
Các doanh nghiệp FDI đã được đẩy mạnh, không chỉ do các ưu đãi của Chính
phủ, mà còn do năng lực quản trị tốt, với mạng lưới toàn cầu. Trong khi
các doanh nghiệp nội địa yếu kém, chủ yếu là do trình độ quản trị, dù
là DNNN hay tư nhân, cũng đang là mối quan tâm nổi lên hiện nay.
Báo cáo của WB tại Việt Nam nêu rõ: “Doanh nghiệp tư nhân trong nước
dường như chịu tác động bởi các yếu tố: tiếp cận nguồn vốn hạn chế, nhu
cầu tiêu dùng trong nước thấp và sân chơi bất bình đẳng so với khu vực
doanh nghiệp nhà nước”. Báo cáo nhấn mạnh: Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài dường như không phải chịu quá nhiều áp lực của hệ thống
quản lý trong nước, và hiện vẫn là nguồn tăng trưởng quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam. Khu vực này đóng góp gần 20% GDP, 22% tổng vốn đầu tư,
2/3 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và tạo ra 1/4 việc làm cho khu vực
doanh nghiệp chính thức. Ngành chế tạo, chế biến của Việt Nam vẫn là
ngành chính thu hút nhà đầu tư nước ngoài: hiện ngành này chiếm khoảng
70% tổng số vốn FDI đăng ký”. Một trong những thách thức to lớn là,
hàng trăm nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa của kinh tế nội địa chưa làm
tốt vai trò hỗ trợ, cầu nối với doanh nghiệp FDI, vươn ra thế giới, chưa
chiếm tỷ trọng vững chắc trong chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ thị
trường nội địa, đang đòi hỏi được xử lý ráo riết từ nhiều phía, đáp ứng
nhu cầu cao của hội nhập nhanh và cạnh tranh gay gắt.
Một vấn đề khác cũng liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô, dó là việc
làm và việc làm có năng suất cao trong nền kinh tế chuyển đổi. Năm qua,
số người được tạo việc làm mới còn yếu, dù số người được đi lao động
nước ngoài vẫn cao, đạt khoảng 100.000 lao động/năm. Tuy nhiên, quá
trình đô thị hóa nhanh, nhưng chưa đủ sức tạo ra thị trường lao động có
năng suất cao ở đô thị, vùng ven đô và lao động phi nông nghiệp ở nông
thôn, trong khi lao động thuần nông vẫn có mức năng suất lao động thấp,
chiếm tới 48% lực lượng lao động, đang làm cho năng suất lao động toàn
xã hội bị thấp xa so với các nước trong vùng.
Cần vươn lên mạnh hơn trong năm 2015
Cùng với nhận định rõ những hạn chế, tồn tại để tập trung khắc phục,
cũng cần thấy rằng, nhiều nhân tố tích cực khách quan và chủ quan của
năm 2014 có thể sẽ không được tiếp tục trong năm 2015 (như thời tiết
thuận hòa), trong khi các yêu cầu về đổi mới, hội nhập đang đòi hỏi
những nỗ lực rất lớn để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nêu ra trong
lĩnh vực kinh tế (chưa nói tới các vấn đề xã hội, môi trường, thể chế).
Có nhiều nhân tố khách quan về xu hướng giảm giá năng lượng và vật tư
phi-dầu cũng cần được phân tích để có những đối sách căn cơ hơn, tạo ra
năng suất mới, hiệu quả tốt hơn.
Các vấn đề cải cách thể chế sẽ gặp khó khăn thêm khi phải vượt qua
các rào cản về tâm lý và cả quan điểm phát triển (các cải thiện môi
trường đầu tư và kinh doanh chạm dần vào các vấn đề khó của hệ thống
pháp luật, khả năng thực thi của bộ máy công chức và việc phòng chống
tham nhũng, quan liêu…). Với việc Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013,
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2014, phù hợp với các tư duy mới của
kinh tế thị trường toàn cầu hóa, đang mở ra một không gian rộng lớn cho
cải cách và phát triển, kết hợp tăng trưởng và giảm nghèo bền vững, tạo
cơ hội cho mọi người. Khi đó, Chính phủ cũng cần xử lý các vấn đề rất cụ
thể như việc giao đất lâm trường cho các hộ gia đình người địa phương
và các buôn làng, nhất là hàng 300.000 hộ còn chưa có đất ở, đất canh
tác, tạo nên cơ chế giữ đất, giữ rừng, từ đó tăng thu nhập ổn định, đảm
bảo cuộc sống ấm no cho đồng bào, giữ vững an ninh, an toàn cho mọi vùng
đất của Tổ quốc.
Bên cạnh nhiệm vụ Quốc hội giao về tái cơ cấu đầu tư công, DNNN và hệ
thống ngân hàng cần thực hiện cơ bản xong trong năm 2015, nhưng cũng
cần triển khai toàn diện hơn các nhiệm vụ của toàn bộ quá tình tái cơ
cấu kinh tế trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp,
công thương,… và các địa phương và vùng lãnh thổ, cũng như toàn nền kinh
tế.
Với sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ, các vị Bộ trưởng lãnh đạo
các cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngân hàng và Công Thương đã
cùng nhau ký kết giao ước phối hợp điều hành kinh tế vĩ mô, tạo ra niềm
tin phối hợp chính sách tốt hơn trong thời gian tới. Năm 2015 cũng là
năm có Đại hội Đảng bộ các cấp vào giữa năm và cả nước tiến tới Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đây là các sự kiện lớn trong
dịp 70 năm Việt Nam độc lập, 40 năm thống nhất đất nước, chắc chắn sẽ
tạo nên khí thế mới cho những bước phát triển mới của đất nước.
GS.TS Nguyễn Quang Thái
Tổng Thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam,
Thành viên Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh.
(Theo Chinhphu.vn)
[1]
Theo bản tin kinh tế vĩ mô của Ủy ban Kinh tế Quốc hội số 10/2014, tỷ
lệ lạm phát của Việt Nam dự báo đạt 6,84% năm 2014 (biến thiên trong
khoảng tin cậy từ cận dưới 5,53% tới cận trên 8,21% với độ tin cậy 80%)
và sẽ tăng nhẹ lên mức 7,08% năm 2015 (biến thiên trong khoảng tin cậy
từ cận dưới 5,71% tới cận trên 8,45% với độ tin cậy 80%). Cơ quan xây
dựng bản tin cho rằng, nếu ưu tiên mạnh mẽ mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thì tỷ lệ lạm phát năm 2014 có thể sẽ cao hơn. Tuy vậy, nếu
muốn kiềm chế lạm phát ở mức 6% thì chính sách kinh tế vĩ mô phải tập
trung hạn chế cả các yếu tố “cầu kéo” và “chi phí đẩy”, qua đó có thể
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. (xem http://vneconomy.vn/thoi-su/tang-truong-kinh-te-viet-nam-2014-kho-dat-muc-tieu-20140426083245491.htm ngày 26/4/2014).
Các phân tích này đã không được thực tế chứng minh, cho thấy vấn đề ổn
định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát vẫn là bài toán phức tạp cần được
chú trọng thời gian tới.