Tính đến tháng 5/2019, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ)
đã bảo hộ CDĐL cho 63 sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Nhờ có CDĐL,
giá trị và giá bán của các sản phẩm đều tăng đáng kể. Đồng thời đây cũng
là cơ sở giúp các địa phương hình thành các tổ chức tập thể như hội,
hiệp hội, đại diện doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm tham gia
tích cực vào sản xuất nông sản.
HIỆU QUẢ TỪ NHỮNG SẢN PHẨM "BIẾT MẶT ĐẶT TÊN"
Năm 2014, cam Cao Phong (tỉnh Hòa Bình) được cấp CDĐL, là dấu mốc quan
trọng và là bước ngoặt mang tính chiến lược để tiếp tục xây dựng và phát
triển thương hiệu. Từ chỗ chỉ là sản phẩm nông sản địa phương ít người
biết, đến nay cam Cao Phong đã có tiếng ở nhiều vùng, miền. Thị trường
cam đang được mở rộng tại miền bắc và vươn tới các tỉnh phía nam. Đáng
chú ý, kênh tiêu thụ sản phẩm cam ngày càng đa dạng và chuyên nghiệp với
những doanh nghiệp lớn tham gia ký hợp đồng tiêu thụ.
Từ khi được cấp
CDĐL, giá cam Cao Phong đã tăng từ 15.000 đồng/kg lên 25 đến 30.000
đồng/kg. CDĐL mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng cam cũng kéo
theo diện tích trồng cam ngày càng tăng thêm.
Anh Bùi Cảnh Hưng (huyện
Cao Phong) chia sẻ: “Từ khi cam được cấp CDĐL, người trồng cam được
hưởng lợi rất nhiều. Hiện nay, gia đình tôi trồng 5 ha cam, lợi nhuận
khoảng hai tỷ đồng/năm. Cam có CDĐL, sản xuất ra bao nhiêu tiêu thụ hết
bấy nhiêu. Cứ đến mùa cam chín, thương lái, doanh nghiệp tấp nập đến mua
với mức giá cao”.
Từ năm 2011, nước mắm Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) đã được Cục Sở hữu trí
tuệ cấp văn bằng quốc gia bảo hộ CDĐL. Đây là một trong những sản phẩm
có lịch sử lâu đời, là niềm tự hào của người dân Phú Quốc. Từ khi được
cấp CDĐL, nước mắm Phú Quốc đã nhanh chóng vươn ra khắp dải đất Việt Nam
và nhiều thị trường thế giới. CDĐL không chỉ mang đến giá bán ổn định,
thương hiệu cho nước mắm Phú Quốc mà còn là tiền đề để sản phẩm này được
công nhận trên phạm vi quốc tế.
Năm 2012, nước mắm Phú Quốc được Ủy ban
châu Âu cấp văn bằng bảo hộ tên gọi xuất xứ địa lý, là sản phẩm đầu
tiên của Việt Nam được bảo hộ trên thị trường của các nước thuộc Liên
hiệp châu Âu. Có thể khẳng định, đây là một trong ít những sản phẩm phát
huy tốt nhất và mạnh nhất “hiệu ứng” của CDĐL, trở thành thương hiệu
sắc nét của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Mới đây, hành tím Vĩnh Châu (thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng) đã được
đăng ký CDĐL. Vĩnh Châu vốn được biết đến là “thủ phủ” của hành tím cả
nước. Tuy nhiên, liên tiếp những năm qua, sản phẩm này long đong trên
thị trường với giá bán trồi sụt thất thường.
Năm 2015, một cuộc “giải
cứu” hành tím đã diễn ra khi Vĩnh Châu có khoảng hơn 50.000 tấn hành
thương phẩm tồn đọng tại các doanh nghiệp, cơ sở thu mua và các hộ dân.
Số lượng này chiếm đến hơn một nửa sản lượng của cả niên vụ. Hành tím ế
ẩm, chất thành đống tại các hộ gia đình, giá thu mua ở mức quá thấp do
các cơ sở thu mua không tìm được đầu ra, khiến người trồng hành thua lỗ
nặng. Chính vì vậy, CDĐL đang trở thành niềm hy vọng cho hành tím Vĩnh
Châu ổn định sản xuất và giá cả.
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và
Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng Nguyễn Thành Phước chia sẻ: “Hành tím
Vĩnh Châu được cấp CDĐL chắc chắn sẽ đưa tên tuổi của sản phẩm này đến
được nhiều hơn với người tiêu dùng trên cả nước, từ đó có thể mở rộng
thị trường tiêu thụ, ổn định giá bán. Khi đã có tên tuổi thì không chỉ
phát triển ở thị trường trong nước mà còn có cơ hội xuất khẩu sang một
số nước lân cận. Đây cũng là cơ sở quan trọng để địa phương quy hoạch
lại vùng trồng cũng như áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, hình
thành những vùng trồng đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP”.
ĐA DẠNG HÓA SẢN PHẨM CÓ CDĐL
CDĐL đang mở ra thêm nhiều cơ hội cho việc tiêu thụ hàng hóa nông sản
cũng như nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm. Tuy nhiên, ở nước ta
hiện nay, số sản phẩm có CDĐL chưa nhiều, mới chỉ có 63 CDĐL, bao gồm 28
CDĐL là các sản phẩm hoa quả, 17 CDĐL bảo hộ các sản phẩm từ cây công
nghiệp, lâm nghiệp, còn lại là các sản phẩm thủy sản, gạo...
Trong khi đó, cả nước hiện có hơn 1.000 sản phẩm đặc sản, bao gồm các
sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp. Ngoài ra, khu vực nông
thôn còn có gần 5.400 làng nghề và làng có nghề sản xuất ra các loại sản
phẩm truyền thống khác nhau. Đây là tiềm năng lớn cho việc khai thác
CDĐL, mang lại giá trị cao hơn cho hàng hóa.
Đơn cử sản phẩm xoài Cao
Lãnh (tỉnh Đồng Tháp) đã có tiếng từ lâu đời nhưng cho đến thời điểm này
mới chỉ có chứng nhận nhãn hiệu tập thể chứ chưa được cấp CDĐL.
Trưởng
phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cao Lãnh, Huỳnh Thanh
Sơn cho biết: Hiện, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh đang phối hợp các đơn
vị liên quan hoàn thành hồ sơ thủ tục đăng ký CDĐL. Những năm gần đây,
nhiều lô xoài của Cao Lãnh đã được xuất khẩu ra nước ngoài cho nên việc
chậm đăng ký CDĐL cũng ít nhiều hạn chế năng lực cạnh tranh của sản
phẩm. Theo dự kiến, cuối năm 2019 sẽ hoàn thành việc đăng ký CDĐL, hy
vọng mở ra nhiều cánh cửa mới cho xuất khẩu sản phẩm xoài chất lượng
cao.
Cũng như xoài Cao Lãnh, cam sành Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) được biết
đến rộng rãi nhưng hiện vẫn chưa có CDĐL.
Trưởng phòng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn huyện Hàm Yên Đàm Ngọc Hưng chia sẻ: Hiện toàn
huyện có khoảng 7.000 ha cam, chủ yếu tiêu thụ trong tỉnh và một phần
bán ra thị trường phía bắc với giá thấp dẫn đến hiệu quả kinh tế không
cao. Nếu có CDĐL chắc chắn sẽ góp phần quan trọng mở rộng thị trường cho
cam sành Hàm Yên. Khi đó cũng tạo tiền đề cho việc quy hoạch lại vùng
trồng trên cơ sở áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng hệ
thống kiểm soát chất lượng toàn diện.
Bên cạnh thực tế sản phẩm nông sản có CDĐL còn ít, thì còn xảy ra hiện
tượng những sản phẩm đã có CDĐL nhưng khai thác không hiệu quả, gây lãng
phí lớn về xây dựng thương hiệu cũng như giá trị kinh tế. Theo Trung
tâm Hợp tác quốc tế nghiên cứu nông nghiệp vì sự phát triển - CIRAD
(Pháp), hiện nước ta có tới 50% số lượng CDĐL chưa được quản lý, khai
thác thật sự hiệu quả.
Cụ thể, CDĐL quế Hưng Yên hay trà Mộc Châu được
giao cho các hiệp hội quản lý nhưng việc tuyên truyền, khai thác chưa
tập trung. Thậm chí nhiều nhà sản xuất tại địa phương được bảo hộ CDĐL
cũng không biết mình có quyền được sử dụng CDĐL cho sản phẩm, khiến hình
ảnh sản phẩm ít được quảng bá và khó mở rộng thị trường tiêu thụ.
Cá
biệt, có những trường hợp chính quyền tỉnh thực hiện đăng ký CDĐL xong,
giao cho địa phương quản lý, khai thác nhưng địa phương cũng không có
chiến lược sử dụng hiệu quả, dẫn đến tình trạng đăng ký xong để đó khiến
việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm không có bất kỳ sự thay đổi tích cực
nào.
Có thể thấy, nguồn lợi từ CDĐL mang lại cho sản xuất và xuất khẩu nông
sản rất lớn. Thực trạng nước ta còn nhiều nông sản có giá trị cao cả về
mặt xuất xứ và chất lượng nhưng vẫn chưa được quan tâm xây dựng CDĐL
đang tạo ra sự lãng phí đáng kể trong sản xuất nông nghiệp, cần sớm có
sự thay đổi và điều chỉnh hiệu quả...
Người dân huyện Cao Phong (Hòa Bình) hưởng lợi khi cây cam được chỉ dẫn địa lý. (Ảnh: Hồng Duyên)
CDĐL không chỉ mang đến ý nghĩa về xuất xứ hàng hóa, mà quan trọng
hơn, nó mang lại giá trị gia tăng cho nhà sản xuất; giúp doanh nghiệp và
địa phương chống hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; quảng bá sản
phẩm địa phương, thu hút khách du lịch; giúp bảo vệ, gìn giữ những nét
văn hóa truyền thống. Một số địa phương đã triển khai công tác quản lý
và sử dụng CDĐL rất tốt có thể kể đến là Kiên Giang (nước mắm Phú Quốc),
Hòa Bình (cam Cao Phong), Hà Giang (mật ong bạc hà Đồng Văn)... Về giá
trị, sau khi được bảo hộ CDĐL, cam Cao Phong có giá bán tăng gấp hai
lần, chuối ngự Đại Hoàng tăng 100 đến 130%, bưởi Phúc Trạch tăng 10 đến
15%, đáng chú ý, bưởi Luận Văn giá bán tăng lên 3,5 lần so với trước khi
được bảo hộ…
|
NÂNG CAO NHẬN THỨC
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng một số ít nông sản
Việt có CDĐL là do yếu tố sản xuất truyền thống từ lâu đời. Cụ thể, hiện
chúng ta có nhiều mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu hằng năm hơn
một tỷ USD như: gạo, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, lâm sản… nhưng
đều xuất khẩu nguyên liệu thô là chính dẫn đến hầu như các doanh nghiệp
cũng như người sản xuất chưa có ý thức đầy đủ về giá trị của việc đăng
ký CDĐL.
Trong khi đó, những sản phẩm chủ yếu tiêu thụ trong nước như
một số loại trái cây, trà, rau củ… phần lớn được thu mua qua thương lái
cho nên vấn đề CDĐL cũng không được quan tâm. Ngoài ra cũng phải kể đến
tâm lý mua hàng của người tiêu dùng trong nước chưa thật sự chú ý đến
nhãn hiệu hay xuất xứ hàng hóa.
Chính vì vậy, cả một thời gian dài chúng
ta chưa có điều kiện cũng như động lực xây dựng CDĐL. Mấy năm trở lại
đây, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đối tác nhập khẩu yêu
cầu cung cấp đầy đủ xuất xứ hàng hóa, cộng với nhu cầu tiêu dùng của
người dân trong nước thay đổi thì CDĐL đã được quan tâm xây dựng và khai
thác.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng không dễ dàng. Giám đốc Trung
tâm Thẩm định CDĐL và nhãn hiệu quốc tế (Cục Sở hữu trí tuệ) Lưu Đức
Thanh nhận định: “Việc đăng ký bảo hộ CDĐL phụ thuộc nhiều yếu tố, nhất
là nhu cầu thực tế của cộng đồng doanh nghiệp, người sản xuất cũng như
định hướng, chính sách hỗ trợ của Nhà nước và các địa phương. Khác với
các hình thức bảo hộ nhãn hiệu tập thể hay nhãn hiệu chứng nhận, CDĐL là
một hình thức khá đặc thù. Sản phẩm đăng ký CDĐL phải có danh tiếng,
chất lượng đặc thù do các điều kiện tự nhiên, con người quyết định; hồ
sơ đăng ký khá phức tạp, gắn với quá trình nghiên cứu, phân tích về chất
lượng sản phẩm, điều kiện sản xuất (đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu…). Do
đó, không chỉ cần kinh phí xây dựng hồ sơ mà còn cần năng lực xây dựng
hồ sơ với những yêu cầu chi tiết và cần nhiều thời gian. Hiện nay, ở các
địa phương, việc xây dựng CDĐL vướng cả ở hai khâu đó”.
Điều này đúng
với nhiều sản phẩm nông nghiệp, trong đó có cam sành Hàm Yên (Tuyên
Quang). Như chia sẻ của Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Hàm Yên Đàm Ngọc Hưng: “Từ năm 2017, tỉnh đã có chủ trương và
giao cho các ngành chức năng phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ để đăng
ký bảo hộ CDĐL cho cam sành Hàm Yên. Tuy nhiên, sau một thời gian dài
làm thủ tục, đến giữa năm 2019 mới được duyệt kinh phí thực hiện. Từ lúc
có kinh phí đến xây dựng hoàn thiện hồ sơ còn cả một chặng đường dài”.
Về thực trạng khai thác CDĐL kém hiệu quả, nguyên nhân bắt nguồn từ
nhiều phía, trong đó có yếu tố về quản lý. Hiện nay, CDĐL do Bộ Khoa học
và Công nghệ cấp chứng nhận; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
hướng dẫn, khuyến khích việc canh tác và xây dựng chuỗi; Bộ Công thương
xúc tiến thương mại.
Tuy nhiên trên thực tế, sự liên kết này vẫn chưa
thật sự chặt chẽ để tạo ra những chuỗi sản phẩm có CDĐL đạt giá trị cao,
được thị trường trong nước và nước ngoài đón nhận. Tại các địa phương
có sản phẩm được cấp CDĐL, thì việc quy hoạch vùng trồng chi tiết nhằm
bảo đảm quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm cũng chưa được thực hiện
đầy đủ. Mặt khác, giữa người sản xuất và doanh nghiệp cũng chưa có sự
kết nối thuần thục để tạo ra những sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu thị
trường cũng như chưa có chiến lược dài hơi quảng bá hình ảnh sản phẩm.
PHÁT HUY HIỆU QUẢ
Theo Cục Sở hữu trí tuệ, sau một vài năm chững lại thì hiện tại, số
lượng hồ sơ đăng ký CDĐL nộp lên Cục đang có chiều hướng gia tăng, một
phần xuất phát từ nhu cầu bảo hộ trong quá trình hội nhập, phần khác do
CDĐL đã từng bước khẳng định rõ ràng hơn về hiệu quả.
Do đó, để đẩy
nhanh việc cấp CDĐL cho nông sản, các địa phương cần xác định rõ các sản
phẩm đặc thù và có lộ trình cụ thể làm hồ sơ đăng ký. Tuy nhiên hiện
nay, trách nhiệm xây dựng hồ sơ đăng ký CDĐL được giao về cho các cơ
quan quản lý nhà nước, thiếu sự chủ động và tham gia của các tổ chức tập
thể, doanh nghiệp và người dân; việc lựa chọn dấu hiệu, loại sản phẩm,
khoanh vùng khu vực địa lý… chưa thống nhất, dẫn đến nhiều hạn chế cho
hoạt động quản lý và sử dụng CDĐL sau khi được bảo hộ. Đáng chú ý, trong
hoạt động quản lý CDĐL, vai trò của nhà nước, tập thể cũng chưa rõ
ràng. Điều này không chỉ tạo gánh nặng lên quản lý Nhà nước mà còn hạn
chế sự phát huy năng lực, trách nhiệm của doanh nghiệp và người dân.
Giải pháp cho vấn đề này, Giám đốc trung tâm thẩm định CDĐL và nhãn
hiệu quốc tế Lưu Đức Thanh cho biết, để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả của
các CDĐL được bảo hộ, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý liên quan
đến CDĐL, nhất là khung chính sách ở tầm quốc gia. Hiện, Cục Sở hữu trí
tuệ đang tích cực hoàn thiện, nhất là đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Sở
hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn. Đồng thời chủ động hướng dẫn các
địa phương xây dựng hồ sơ đăng ký cũng như tổ chức quản lý CDĐL.
Về phía
địa phương, nên chủ động xây dựng mô hình tổ chức quản lý và sử dụng
CDĐL phù hợp, chú trọng nâng cao và thúc đẩy vai trò của các tổ chức tập
thể, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất. Các quy định về
quản lý CDĐL nên tiếp cận theo hướng đơn giản, tạo điều kiện cho tổ
chức, cá nhân sử dụng. Cùng đó là gắn việc xây dựng, sử dụng CDĐL với
các chương trình hỗ trợ của Nhà nước, nhất là chương trình mỗi xã một
sản phẩm để hoàn thiện, quản lý chất lượng. Điều này vô cùng quan trọng
vì đăng ký CDĐL chỉ là bước xác lập về quyền sở hữu trí tuệ, là một
trong nhiều công cụ để tổ chức sản xuất, chế biến và thương mại.
Việc
nông sản Việt có thể vào được thị trường các nước hay không phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác như: điều kiện tham gia chuỗi giá trị toàn cầu;
năng lực mở rộng và phát triển thị trường của doanh nghiệp; chất lượng
và sự ổn định về chất lượng sản phẩm, nhất là vấn đề an toàn thực phẩm
để đáp ứng các rào cản kỹ thuật của các nước… Chính vì vậy, ngoài việc
đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, cần có các giải pháp mạnh mẽ về tổ chức
sản xuất, chế biến và xây dựng chất lượng sản phẩm gắn với yêu cầu thị
trường.
Ngoài những yếu tố về quản lý nhà nước và pháp lý nêu trên, cần tăng
cường hoạt động quảng bá, giới thiệu và nâng cao vai trò của CDĐL trên
thị trường. Ở cấp độ quốc gia, cần một chương trình tổng thể nhằm xây
dựng các công cụ, hoạt động quảng bá như, xây dựng lô-gô CDĐL quốc gia,
hội chợ CDĐL… để CDĐL trở thành dấu hiệu nhận diện và lựa chọn của người
tiêu dùng.
Đối với các sản phẩm cụ thể, mỗi địa phương cần có chiến
lược xây dựng hình ảnh bài bản, có thể gắn mỗi CDĐL với một câu chuyện
về thổ nhưỡng, khí hậu, con người… nhằm tạo ra những “giá trị vô hình”
cho sản phẩm. Thực tế cho thấy, rất nhiều nông sản của các quốc gia trên
thế giới đã tận dụng thành công cách làm này. Và người tiêu dùng không
chỉ mua một món hàng với giá trị hữu hình mà thứ thu hút họ nhiều hơn có
thể lại chính là “giá trị vô hình” từ vùng đất sản sinh ra nó.
Có thể thấy, xây dựng CDĐL đang trở thành yêu cầu đặc biệt quan trọng
đối với nông sản. Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu rộng vào các
hiệp định thương mại tự do thì vấn đề sở hữu trí tuệ, CDĐL gần như là
yếu tố bắt buộc, sống còn để hàng hóa được quyền tham gia những “cuộc
chơi” lớn.
Việc đăng ký CDĐL cũng không còn giới hạn tại thị trường
trong nước mà phải tìm cách đăng ký CDĐL ở nước ngoài để tạo thương hiệu
quốc tế cho nông sản Việt. Vì vậy, những yêu cầu cấp bách này cần được
sự chung tay, vào cuộc giải quyết nhanh và hiệu quả của các cấp, các
ngành từ Trung ương đến địa phương cũng như của doanh nghiệp và người
sản xuất, để CDĐL thật sự phát huy giá trị, trở thành “điểm tựa” cho
nông sản Việt vươn ra toàn cầu./.
Hiện nay, việc xây dựng CDĐL cho nông sản ở Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở mức khuyến khích, chưa trở thành một đòi hỏi mang tính bắt buộc. Vì vậy các sản phẩm nông sản dù đi đến được nhiều quốc gia trên thế giới nhưng thế giới vẫn không biết đến thương hiệu của nông sản Việt Nam. Nguyên nhân do nhiều địa phương và doanh nghiệp chưa thật sự thấy rõ vai trò và ý nghĩa của việc xây dựng CDĐL nông sản. Tới đây việc bảo hộ CDĐL không chỉ cần được đăng ký trong nước mà quan trọng hơn là còn phải đăng ký tại các thị trường nước ngoài để tránh tình trạng CDĐL đó có thể bị doanh nghiệp nước khác đăng ký và độc quyền sử dụng, khai thác.
Vũ Xuân Trường
Chuyên gia về thương hiệu, Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh
|
Ánh Tuyết, Hoàng Hùng, Trần Hảo (nhandan.com.vn)