1.
Thực tiễn đã cho thấy, dân tộc Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình,
luôn mong muốn, khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập. Tuy nhiên,
xuyên suốt lịch sử của dân tộc, các thế lực ngoại bang luôn tìm mọi
cách để thôn tính, xâm lăng, chống phá nước ta. Vì vậy, chăm lo phát
triển kinh tế - xã hội và xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh để làm
cho “quốc phú - binh cường”; chú trọng giữ vững ổn định ở bên trong và
tiến hành bang giao hòa hiếu với các quốc gia láng giềng để giữ cho “nội
yên - ngoại tĩnh” đã trở thành ý thức thường trực, kinh nghiệm quý báu
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Kế
thừa, phát huy truyền thống, kinh nghiệm quý báu của dân tộc, trong
suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối quân sự, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc và luôn quan tâm, chăm lo xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh nhằm mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để phát triển đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Sau
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước thắng lợi, cả nước bước vào
thời kỳ độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
nước ta vẫn phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách nặng nề; khi đó,
Đại hội IV của Đảng (năm 1976) chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách cần phải tập
trung giải quyết là: “Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước.
Đi đôi với việc xây dựng đất nước về mọi mặt, phải ra sức xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây
dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho đất nước sẵn sàng đánh bại mọi
cuộc tiến công của bọn xâm lược. Phải kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ lao
động với nghĩa vụ quân sự để vừa đẩy mạnh xây dựng kinh tế, vừa bảo đảm
củng cố quốc phòng một cách vững chắc”(1).
Tuy
nhiên, trong khi tình hình kinh tế - xã hội đang khó khăn chồng chất
chưa được tháo gỡ, thì ngay sau đó, nước ta lại phải tiến hành hai cuộc
chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía
Bắc của Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, Đại hội V của Đảng (năm 1982) đã chỉ
rõ: Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, “phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại...
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từng
bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực
kinh tế của đất nước. Đó là những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của
công cuộc bảo vệ Tổ quốc”(2). Chính tinh thần cảnh giác, chủ
động và sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
đã tạo nên sức mạnh to lớn để chúng ta vượt qua thử thách ngặt nghèo,
đánh bại mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc.
Bước
vào thời kỳ đổi mới, cùng với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ trên
tất cả các lĩnh vực, tư duy mới của Đảng về quân sự, quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc cũng từng bước được hình thành, bổ sung và phát triển. Đại hội
VI của Đảng (năm 1986) xác định: “Chúng ta phải thấu suốt và thực hiện
đúng quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn
quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, kiên trì chấp hành và cụ thể
hoá đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(3).
Tuy
nhiên, khi đất nước ta vừa bắt tay vào công cuộc đổi mới, thì các nước
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng dẫn đến sụp
đổ...; lúc này, vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được đặt ra cấp
thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
đã nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố
quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng”(4).
Đặc
biệt, tháng 7/2003, Hội nghị Trung ương 8 khóa IX ban hành “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, trong đó chỉ rõ: Chúng ta kiên định
lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế -
xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước. Do đó, “sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực mọi
mặt của đất nước, trước hết là tiềm lực về chính trị, tinh thần, tiềm
lực kinh tế; tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân;
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
mà mấu chốt là thế trận lòng dân; đẩy mạnh giáo dục quốc phòng; phát
triển phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
đủ sức làm nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong
mọi tình huống”(5).
Như vậy, tư duy của Đảng về quân sự, quốc phòng đã có bước phát triển rất quan trọng, đó là “từ tư duy quân sự là chủ yếu sang tư duy về quốc phòng là cơ bản”
nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, ngăn
ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột và xem đây là lợi ích cao nhất của
đất nước.
Tháng
10/2013, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX và dự báo những nhân tố tác động mới, Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”. Trong đó, xác định củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên; phải tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Đặc
biệt, ngày 16/4/2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số
24-NQ/TW về “Chiến lược quốc phòng Việt Nam”. Nghị quyết xác định rõ mục
tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, phương thức, nhiệm vụ và giải
pháp xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để chủ động bảo vệ Tổ quốc từ
sớm, từ xa. Về nguyên tắc xây dựng nền quốc phòng, Đảng ta khẳng định:
Thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện
pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tích cực, chủ động ngăn
ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc
từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược. Những nguyên tắc
trên thể hiện rõ mục đích, tính chất của nền quốc phòng Việt Nam, đồng
thời cho thấy mong muốn, thiện chí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Trên
cơ sở đó, phương châm chỉ đạo được xác định là: Thực hiện “dĩ bất biến
ứng vạn biến”, trong đó lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến; kiên
định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm
dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch, phản động, sự biến động phức tạp của tình hình, sự đan xen,
chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng. Kiên định phương châm
“người trước, súng sau”, lấy con người là trung tâm, trọng tâm trong
công tác quốc phòng. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có phẩm chất
đạo đức, bản lĩnh, trình độ, năng lực hoạt động thực tiễn trong sự
nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì kết hợp vừa
hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở nắm vững và tuân thủ luật pháp
quốc tế; thêm bạn bớt thù, giữ cân bằng chiến lược với các nước lớn
và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước và các tổ chức quốc tế,
không để nước ngoài lợi dụng hoặc thỏa hiệp với nhau làm phương hại tới
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Về
phương thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Chiến lược quốc phòng
Việt Nam nhấn mạnh yêu cầu phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và toàn dân, toàn diện, bảo vệ vững chắc hòa bình, giữ
vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ mà không phải tiến hành chiến tranh;
tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng “thế trận lòng dân”
vững chắc. Xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các loại hình tổ
chức kinh tế - xã hội và từng vùng, miền. Xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân vững trên cả nước, mạnh ở trọng điểm. Thời bình
thực hiện sự nghiệp quốc phòng là “của dân, do dân, vì dân”; quốc
phòng thời chiến phải “bám trụ, bám dân” để chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ nhân dân. Chuẩn bị sẵn sàng chuyển đất nước từ thời
bình sang thời chiến.
Đến
Đại hội XIII của Đảng, Đảng chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh với phương hướng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh;
xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng
toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(6). Kết
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc
phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội
và đối ngoại...
Trên
cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (tháng 10/2023)
tiếp tục ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”, trong đó xác định: Phát huy vai trò to lớn của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện hiệu quả
đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc; “… dựa vào dân, lấy “dân là gốc”, khơi dậy, phát
huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa, yêu nước, sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân”, lấy “yên
dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”(7). Đồng thời, tăng cường đầu tư thích đáng cho
việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng
vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, giữ
nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong
mọi tình huống.
Cùng
với tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, trong thời kỳ
mới, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và
đấu tranh quốc phòng. Năm 2019, trong lần thứ tư công bố Sách trắng quốc
phòng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc
tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “Tích cực, chủ động, chắc
chắn, linh hoạt, hiệu quả” nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của
cộng đồng quốc tế; tăng cường lòng tin chiến lược, duy trì môi trường
hòa bình, hợp tác cùng phát triển, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8). Đồng thời,
“Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả
các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn
ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược”(9). Đặc
biệt, “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ
điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng
đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền
quốc gia”(10).
Về
đấu tranh quốc phòng, Việt Nam chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang
làm nòng cốt trong đấu tranh quốc phòng, cả phi vũ trang và vũ trang;
kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế,
văn hóa; không để nước ngoài lợi dụng, thỏa hiệp với nhau hoặc với các
thế lực thù địch làm phương hại đến độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia
- dân tộc; xử trí linh hoạt, hiệu quả từng tình huống. Điều này cho
thấy, mong muốn, thiện chí và lập trường kiên định trước sau như một của
Việt Nam trong đối ngoại và đấu tranh quốc phòng là vì một thế giới hòa
bình, hợp tác và phát triển, không có xung đột, chiến tranh.
Trên
cơ sở những kết quả đã đạt được và trước yêu cầu của thời kỳ mới, ngày
28/4/2023, Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Kết luận số 53-KL/TW về “Hội
nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp
theo”, trong đó xác định rõ: Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng
nhằm góp phần tăng cường tiềm lực, khả năng tự lực, tự cường về quân sự,
quốc phòng, nâng cao sức mạnh quốc phòng và sức mạnh tổng hợp của đất
nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại quốc phòng trong giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước; nâng cao
vị thế, vai trò, uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên
trường quốc tế.
2.
Như vậy, trong thời kỳ mới, tư duy của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc nói chung, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng có
bước phát triển quan trọng và ngày càng hoàn thiện, với phương châm cốt
lõi là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh mới là quốc
phòng tối ưu và càng chuẩn bị tốt nhất cho sẵn sàng chiến tranh thì
chiến tranh càng lùi xa. Do đó, quốc phòng, an ninh không ngừng được
củng cố, tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân, đặc biệt là “thế trận lòng dân” được củng cố ngày càng vững chắc,
góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, việc xây dựng
nền quốc phòng toàn dân vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế; trong khi
đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá với
những thủ đoạn ngày càng tinh vi, quyết liệt và toàn diện hơn. Vì vậy,
để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc
Tổ quốc từ sớm, từ xa, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một
là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng và nhân
dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình
mới.
Đây
là nội dung quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm,
phát huy vai trò, tính tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị và
toàn dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, toàn diện. Do
đó, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và toàn dân thấm nhuần sâu
sắc truyền thống đánh giặc, giữ nước kiên cường, anh dũng của dân tộc,
khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; thấy rõ được giá
trị của hòa bình, độc lập, tự do; nhận thức đúng đắn quan điểm, đường
lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân nói riêng, từ đó, phát huy ý thức, trách nhiệm, tích cực
tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Giáo dục, quán
triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững quan điểm về đối tác,
đối tượng; biết nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch, nhất là âm mưu xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc...; nâng cao cảnh giác, tích cực
tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá ngay
từ địa phương, cơ sở, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Chiến sĩ Đồn Biên phòng Lũng Cú cùng nhân dân trên địa bàn tuần tra, bảo vệ đường biên, cột mốc. (Ảnh: TTXVN)
Hai
là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường, ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới.
Hiện
nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
hội nhập quốc tế sâu rộng nên sự ảnh hưởng, phụ thuộc và thâm nhập lẫn
nhau giữa hoạt động quân sự, quốc phòng với các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội ngày càng gia tăng. Vì vậy, sự nghiệp củng cố quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc không thể chỉ dựa vào lực lượng vũ trang, mà phải thấm
sâu và trở thành ý thức thường trực, hành động cách mạng của mọi tầng
lớp nhân dân và trong tất cả các hoạt động, các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, phải không ngừng
củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; thể chế hóa kịp thời
các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; tạo cơ chế để huy động tốt
nhất sự đóng góp của các cấp, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân cho
sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn và sức ép “chọn bên” ngày càng gay
gắt hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng nền quốc phòng theo hướng
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; huy động tối đa mọi nguồn lực trong
nước, lấy sức mạnh nội lực là chính; đồng thời, mở rộng hợp tác quốc
phòng, tranh thủ có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng nền quốc
phòng ngày càng toàn diện, hiện đại cả về lực lượng, thế trận, vũ khí
trang bị, khoa học và nghệ thuật quân sự, bảo đảm có đủ tiềm lực, sức
mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Ba là, chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.
Thực
tiễn lịch sử của đất nước ta cho thấy, khi nào lòng dân thuận thì thế
nước mạnh, lòng dân ly tán thì thế nước yếu. Trong bối cảnh phát triển
nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch hiện nay, thì vấn đề xây dựng “thế trận lòng dân”,
thế trận quốc phòng toàn dân càng có ý nghĩa quan trọng. Do đó, phải tập
trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, xóa
đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, không ngừng cải thiện, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là ở địa bàn vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn... Thu hẹp
khoảng cách giàu, nghèo, khoảng cách giữa các vùng, miền; thực hiện tiến
bộ, công bằng và bảo đảm an sinh xã hội, làm cho mọi người dân có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Đặc biệt, phải
luôn coi trọng giữ gìn, bồi đắp mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân; thực sự trọng dân, gần dân, sát dân, tin dân, hiểu dân, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quan tâm, chăm lo đến lợi ích,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý triệt để những vấn đề gây bất
bình, bức xúc trong nhân dân. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng
cố vững chắc lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng
Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện,
thực hiện có hiệu quả phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; động viên toàn dân tham gia xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân vững chắc ở tất cả các cấp, các địa bàn, biên giới, biển, đảo
và trên các môi trường (trên bộ, trên không, trên biển, không gian
mạng), sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng thời bình và chuyển hóa
thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh, không
để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Bốn
là, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, thực sự
là nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Lực
lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân Việt Nam là lực
lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Do đó, phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là
Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực
lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội,
công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng
của Đảng; có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
có cơ cấu, tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức chiến đấu cao, có
vũ khí, trang bị hiện đại; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm
cao, tầm xa, khả năng kiểm soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác
chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các tình huống xung đột và
chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
vững mạnh, rộng khắp; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng
cao; đồng thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực
lượng Công an nhân dân Việt Nam; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa quân
đội với công an và dân quân tự vệ tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện
nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi
phải thực hiện đồng bộ, toàn diện các chủ trương, giải pháp để làm cho
đất nước mạnh lên về mọi mặt; trong đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh chính là phương thức tối ưu, hiệu quả nhất để giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa./.
Đại tá, TS. BÙI ĐÌNH TIỆP
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
____________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr. 923.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.43, tr.54-55.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.47, tr.719.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, tr. 318.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, t.62, tr.408.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.157.
(7)
Nguyễn Phú Trọng: Nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, phát huy kết
quả đạt được từ đầu nhiệm kỳ, thực hiện thật tốt các nghị quyết của Hội
nghị, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; chuẩn bị
thật tốt đại hội đại biểu đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIV của Đảng, Tạp chí Cộng sản số 1.024 (tháng 10/2023), tr.14.
(8) (9) (10) Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2019, tr.27-28, 28, 28.
(Nguồn: TC Cộng sản)