Trong
hệ quan điểm chỉ đạo xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa (XHCN), cùng với tiếp tục khẳng định kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường
lối đổi mới của Đảng, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải “kiên định
các nguyên tắc xây dựng Đảng”(1).
Về
lý luận, nguyên tắc là vấn đề có tính sống còn đối với một tổ chức,
tuân thủ các nguyên tắc thì tổ chức vững mạnh, từ bỏ hoặc thực hiện
không nghiêm túc các nguyên tắc thì sẽ dẫn đến sự rệu rã, giảm sút sức
mạnh, thậm chí đứng trước nguy cơ tan rã của tổ chức. Cho đến trước Đại
hội VII của Đảng (năm 1991), Đảng ta khẳng định trong Đảng có ba nguyên
tắc: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình,
nguyên tắc đoàn kết thống nhất. Đại hội VII của Đảng bổ sung hai nguyên
tắc: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều lệ Đảng do Đại hội XI của Đảng thông
qua khẳng định: “lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,
thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ
luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê
bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó
mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật”(2).
Trong
công cuộc đổi mới gần 40 năm qua, để bảo đảm yêu cầu xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, Đảng ta luôn kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng và đạt được
những thành tựu quan trọng. Một là, giữ vững các nguyên tắc xây dựng Đảng ngay khi khởi đầu công cuộc đổi mới. Hai là, khẳng
định tính đúng đắn và kiên quyết giữ vững các nguyên tắc xây dựng Đảng
trong thời điểm đặc biệt: chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các
nước Đông Âu sụp đổ, đảng cộng sản và công nhân ở các nước này mất vị
thế cầm quyền. Ba là, không chỉ giữ vững các nguyên tắc xây
dựng Đảng đã được khẳng định, mà còn bổ sung các nguyên tắc mới cần
thiết; đồng thời, không ngừng tổng kết thực tiễn, hoàn thiện các nguyên
tắc xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Bốn là, vừa kiên định, vừa không ngừng cụ thể hóa, hoàn thiện nội dung của từng nguyên tắc. Năm là,
kiên quyết bảo vệ nguyên tắc, kịp thời đấu tranh với các âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với các nguyên tắc xây dựng
Đảng.
NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA QUA THỰC TIỄN KIÊN ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG ĐẢNG
Một là,
gắn việc kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng với kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới.
Về
bản chất, các nguyên tắc xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam đều
dựa chắc trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về đảng cộng sản và công tác xây dựng Đảng. Vì thế, kiên định
các nguyên tắc xây dựng Đảng đương nhiên gắn liền với kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xem đó như là một bộ phận hữu
cơ của kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể
kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng nếu thoát ly những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản.
Việc kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng có sự bổ sung, phát triển
cũng chính là sự tuân thủ, nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về tránh giáo điều, rập khuôn máy móc học thuyết Mác - Lênin.
Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trên cơ sở kiên định và thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng cốt để Đảng thực hiện tốt sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc trước đây và lãnh đạo đất
nước giữ vững độc lập dân tộc, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới,
không ngừng phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ngày nay.
Vì thế, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với
việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định
đường lối đổi mới. Sẽ là trống rỗng, không có sức sống, thậm chí mất
định hướng, nếu việc duy trì các nguyên tắc xây dựng Đảng không giải
quyết được các vấn đề đặt ra trong nội bộ Đảng và trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng ở từng thời kỳ cách mạng; không đặt trong việc thực hiện
mục tiêu giải phóng, giành độc lập dân tộc và giành chính quyền trước
đây, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN hiện
nay. Ở đây, việc gắn kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng với kiên
định đường lối đổi mới bao hàm sự kiên định các nguyên tắc trong công
cuộc đổi mới đất nước đã được Đảng ta xác định; kiên định đường lối phát
triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát
triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là
trọng yếu, thường xuyên.
Hai là,
kiên định nguyên tắc xây dựng Đảng bằng việc cụ thể hóa nguyên tắc
trong Điều lệ Đảng, các nghị quyết, kết luận, quy chế, quy định, hướng
dẫn của Đảng.
Các
nguyên tắc xây dựng Đảng đều là những mệnh đề ngắn gọn, mang tính khái
quát cao, trong khi hệ thống tổ chức của Đảng, thực tiễn công tác xây
dựng Đảng và hoạt động của Đảng rất phong phú, đa dạng. Trên thực tế,
không phải tất cả cán bộ, đảng viên đều có thể nhận thức đúng về các
nguyên tắc; loại trừ những trường hợp cố tình vận dụng sai, vi phạm
nguyên tắc vì mục đích cá nhân, “lợi ích nhóm”, có không ít trường hợp
hiểu nguyên tắc chưa thật chuẩn xác, hoặc có các cách hiểu khác nhau.
Cũng có nhiều tình huống thực tế mà các quy định của Đảng chưa bao quát
hết, chưa cụ thể, hoặc bị lạc hậu... Do đó, để kiên định nguyên tắc, thì
việc cụ thể hóa nguyên tắc trong Điều lệ Đảng, các nghị quyết, kết
luận, quy chế, quy định, hướng dẫn của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt cần
thiết; trong đó, cần coi trọng việc xây dựng, ban hành, thực hiện và
kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế làm việc của các cơ quan lãnh
đạo đảng các cấp, quy chế quan hệ công tác giữa các cấp ủy, tổ chức
đảng. Chẳng hạn, trong điều kiện có chính quyền, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, các cấp ủy viên được bố trí đảm nhiệm cương vị người đứng
đầu, các vị trí chủ chốt trong cơ quan nhà nước, nội dung “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách” trong nguyên tắc tập trung dân chủ cần được quy
định phù hợp; cũng là cơ quan lãnh đạo đảng, nhưng đảng đoàn, ban cán sự
đảng có nhiều đặc điểm khác cả về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và phương thức hoạt động so với cấp ủy... Việc áp dụng nguyên tắc
tập trung dân chủ trong các lĩnh vực tư tưởng, tổ chức và cán bộ, công
tác bảo vệ chính trị nội bộ, kinh tế, văn hóa, tư pháp, quốc phòng, an
ninh cũng cần có quy định phù hợp.
Quân và dân tuần tra biên giới. (Ảnh: TTXVN)
Ba là,
bám sát thực tế tổ chức và thực tiễn hoạt động của Đảng để kịp thời bổ
sung, hoàn thiện nội dung của các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Các
nguyên tắc xây dựng Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, việc thêm bớt
nguyên tắc, điều chỉnh nội dung của từng nguyên tắc cần được cân nhắc kỹ
lưỡng, hết sức thận trọng. Việc cụ thể hóa các nguyên tắc, nhất là bổ
sung, hoàn thiện các nguyên tắc phải được nghiên cứu nghiêm túc, công
phu, làm rõ và tạo được sự đồng tình cao về căn cứ lý luận và thực tiễn.
Có những vấn đề cần soi chiếu với các nguyên lý của học thuyết Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản để khẳng định chắc chắn cơ
sở lý luận, đồng thời chú trọng việc bám sát, tổng kết thực tiễn tổ
chức và hoạt động của Đảng. Qua tổng kết thực tiễn, những nội dung gì đã
rõ, được thực tiễn khẳng định là đúng đắn, được đa số đồng tình thì đưa
vào quy chế, quy định; những vấn đề gì thấy cần thiết sửa đổi, nhưng ý
kiến còn khác nhau nhiều, thì tổ chức làm thí điểm, sau đó tiến hành
tổng kết, kết luận; đối với những vấn đề quá mới, chưa rõ về căn cứ lý
luận và thực tiễn, thì tổ chức tiếp tục nghiên cứu, chưa đưa vào quy
chế, quy định. Quá trình sửa đổi Điều lệ Đảng, bổ sung, hoàn thiện quy
chế, quy định cần được tổ chức thực hiện một cách hết sức dân chủ, khách
quan, có sự đóng góp của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, cơ quan khoa
học, kể cả cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng đã
nghỉ hưu. Ngoài ra, cũng cần quan tâm nghiên cứu thực tế, kinh nghiệm
của các đảng cộng sản cầm quyền để tham khảo chọn lọc những vấn đề thiết
thực trong quá trình điều chỉnh những quy định liên quan đến nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Đảng.
Bốn là, thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng về các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Các
nguyên tắc xây dựng Đảng là vấn đề sống còn của Đảng, bảo đảm cho Đảng
luôn đề ra được cương lĩnh, đường lối đúng đắn; đoàn kết, thống nhất cả
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, ý chí và hành động; luôn trong sạch,
vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tuyệt đối tin
tưởng.
Một mặt,
các nguyên tắc xây dựng Đảng đòi hỏi sự tuân thủ của tổ chức đảng và
toàn thể đảng viên, trong đó có không ít quy định phòng ngừa, ngăn chặn
sự tự do tùy tiện của những nhóm, cá nhân đảng viên muốn lợi dụng danh
nghĩa Đảng để mưu cầu lợi ích riêng; mặt khác, sự nhận thức
đúng đắn và đầy đủ, sự thông suốt tư tưởng của cán bộ, đảng viên về các
nguyên tắc luôn là tiền đề đối với việc thực hiện nghiêm túc và sáng tạo
nguyên tắc. Vì vậy, công tác tư tưởng của Đảng phải thường xuyên làm
cho tất cả cán bộ, đảng viên nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng
của các nguyên tắc xây dựng Đảng, nội dung của từng nguyên tắc, mối quan
hệ mật thiết giữa các nguyên tắc; xác định đúng trách nhiệm của tổ chức
đảng, cá nhân trong thực hiện nghiêm các nguyên tắc; kịp thời phê phán
nhận thức lệch lạc và đấu tranh, thi hành kỷ luật tổ chức, cá nhân cán
bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc.
Năm là,
xử lý hợp lý mối quan hệ giữa thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong
điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, trong tất cả cơ quan nhà
nước từ Trung ương đến địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội, quân đội, công an, các đơn vị sự nghiệp công
lập, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ vốn điều lệ
đều có tổ chức đảng; đồng thời, hầu hết vị trí lãnh đạo chủ chốt của tổ
chức, cơ quan đó do đảng viên đảm nhiệm. Trong sự nghiệp đẩy mạnh xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay thì việc thực hiện
các nguyên tắc xây dựng Đảng có ảnh hưởng lớn và sâu sắc đến tổ chức và
hoạt động của các tổ chức khác, nhất là các tổ chức trong hệ thống chính
trị.
Về
nguyên tắc, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác tổ
chức, lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong toàn bộ
hệ thống chính trị. Tuy nhiên, ở đây có những đặc điểm tạo nên sự khác
biệt cần được quan tâm để xử lý đúng. Chẳng hạn, tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, cũng là nguyên tắc tổng quát trong
tổ chức và hoạt động của Nhà nước, nhưng nhiều cơ quan nhà nước (bộ, cơ
quan ngang bộ, kiểm toán nhà nước, cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân
dân...) lại hoạt động theo chế độ thủ trưởng; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, trong khi Công
đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động. Cơ
quan lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp do bầu cử lập ra, tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì vậy, trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội phải vừa bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, các tổ chức đảng trong các cơ quan, tổ chức đó thực hiện nghiêm
túc các nguyên tắc của Đảng, vừa phát huy vai trò của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, tuân thủ pháp luật, tôn trọng điều lệ và đặc điểm về
tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và từng tổ chức chính
trị - xã hội.
Sáu là,
kịp thời chấn chỉnh những nhận thức lệch lạc, xử lý những biểu hiện vi
phạm nguyên tắc xây dựng Đảng; kiên quyết đấu tranh phản bác luận điệu
của các thế lực thù địch xuyên tạc, hòng phủ nhận, bác bỏ các nguyên tắc
xây dựng Đảng.
Trong
các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các nghị quyết Hội
nghị Trung ương chuyên đề về công tác xây dựng Đảng đều có nội dung phê
phán những nhận thức lệch lạc và những biểu hiện vi phạm các nguyên tắc
xây dựng Đảng. Trong những năm gần đây, về nguyên tắc tập trung dân chủ,
Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/1/2012 của Hội nghị Trung ương 4 khóa
XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ rõ: “Nguyên
tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi
vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa
tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm.
Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá
nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết,
dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc
lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”(3).
Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/102016 của Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” phê phán khuyết điểm trong
thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình: “Tự phê bình và phê bình
nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh,
ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và
trách nhiệm của mình trong công việc được giao”(4). Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng chỉ ra 1 trong 5 nguyên nhân của những hạn chế,
khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ vừa qua là: “Việc thực
hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn
kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền
lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”(5). Kết luận số 21-KL/TW,
ngày 25/10/2021 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về "Đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”” cũng chỉ ra
một trong những nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, khuyết điểm của công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là: “Không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu
tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ
ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân”(6). Từ hạn
chế, khuyết điểm đó, Đảng kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp để khắc
phục và phòng ngừa, không để tái phạm, kể cả xử lý kỷ luật cán bộ, đảng
viên vi phạm, tạo sự cảnh báo, răn đe.
Việc
đấu tranh phản bác luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, bác bỏ
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được Đảng ta thường xuyên
quan tâm. Trong những năm gần đây, nhất là từ khi Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về "Tăng cường bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới”, việc phản bác các quan điểm sai trái của các thế
lực thù địch và phê phán nhận thức lệch lạc của cán bộ, đảng viên về
công tác xây dựng Đảng, trong đó có các nguyên tắc xây dựng Đảng, được
đẩy mạnh, trở thành phong trào rộng khắp, đi vào chiều sâu, đem lại hiệu
quả tích cực.
Nguyên tắc tập trung dân chủ không
chỉ tạo cho Đảng kỷ luật thống nhất, nghiêm minh, mà còn tạo cơ chế hữu
hiệu nhất để phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo, khai thác mọi trí tuệ của
đảng viên, của cơ sở. (Trong ảnh: Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng). (Nguồn: Vietnamplus.vn)
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG TIẾP TỤC THỰC HIỆN KIÊN ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG ĐẢNG
Một là, thống nhất quan niệm về các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Cho
đến trước Đại hội VII của Đảng, các văn kiện của Đảng dùng khái niệm
“nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng”, vì ba nguyên tắc: tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất
điều chỉnh các quan hệ nội bộ của Đảng. Từ Đại hội VII của Đảng, trong
các văn kiện của Đảng dùng phổ biến cụm từ “các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng”, vì đã bổ sung hai nguyên tắc: Đảng gắn bó mật thiết
với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật -
các nguyên tắc điều chỉnh với nhân dân, với Nhà nước, dưới sự điều chỉnh
của pháp luật. Cách diễn đạt như vậy là chính xác cả về lý luận và thực
tiễn. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo, cầm quyền, Đảng không chỉ xây dựng
nội bộ trong sạch, vững mạnh, mà quan trọng là thực hiện tốt vai trò
lãnh đạo, cầm quyền đối với Nhà nước và xã hội. Trong hoạt động lãnh đạo
của Đảng cần có các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của Đảng, theo đó
cần gọi đầy đủ là “nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”. Việc dùng
thêm khái niệm “nguyên tắc xây dựng Đảng” như một cách gọi tắt của khái
niệm “nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”, cần có sự giải thích để
tạo sự thống nhất về nhận thức.
Về
nguyên tắc tập trung dân chủ, cần thống nhất chỉ là “nguyên tắc tập
trung dân chủ”, không nên viết kèm cụm từ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách”. Chỉ nên gọi “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” là “chế độ”
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dùng: “Những người cán bộ phải thực
hành cho kỳ đúng cái chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”(7).
Hai là, nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Đảng.
Điều
lệ Đảng hiện hành được Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua, các
Đại hội XII và XIII của Đảng không sửa đổi Điều lệ Đảng. Thực tiễn xây
dựng Đảng và hoạt động của Đảng trong hơn 10 năm qua đã đặt ra nhiều vấn
đề mới cần được chế định trong Điều lệ Đảng. Trong những năm qua, trong
các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị các khóa đã có các quy định mới, được thực tiễn ghi
nhận là cần thiết và đúng đắn, nhưng cần được điều chỉnh bằng văn bản
cao nhất là Điều lệ Đảng. Chẳng hạn, liên quan đến nguyên tắc tập trung
dân chủ, cần hoàn thiện cách diễn đạt về việc lập cơ quan lãnh đạo của
Đảng ở các cấp để bao quát cả các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các đảng
ủy quân sự, chế độ báo cáo và chịu trách nhiệm của các đảng đoàn, ban
cán sự đảng...; trong nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
cần bổ sung nội dung đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013: Đảng Cộng
sản Việt Nam “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự
giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết
đị#nh của mình”, cũng như quan điểm “dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” -
đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định.
Ba là, giải quyết hợp lý việc phân cấp, ủy quyền với giữ vững sự thống nhất trong thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Đương
nhiên, các nguyên tắc của Đảng có hiệu lực áp dụng chung trong toàn
Đảng; trong khi đó, hệ thống tổ chức của Đảng có nhiều cấp, nhiều loại
hình, nên phải thực hiện việc phân cấp, ủy quyền để phát huy vai trò,
trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của từng cấp phù hợp với đặc điểm
của từng cấp, từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Các nguyên tắc xây dựng
Đảng cũng được vận dụng thích hợp với cấp ủy, tổ chức đảng từng cấp,
từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trong đó có sự phân cấp, ủy quyền nhất
định. Tuy nhiên, khi phân cấp, ủy quyền sẽ có thể phát sinh hai khuynh
hướng: Hoặc phân cấp, ủy quyền quá hẹp khiến cấp dưới luôn bị động, phụ
thuộc cấp trên, phải xin ý kiến cấp trên, cấp trên thành ra bao biện...;
hoặc phân cấp, ủy quyền quá rộng dẫn đến cấp dưới có thể lộng quyền,
lạm quyền, cấp trên không kiểm soát được. Vì vậy, trong các quy chế, quy
định thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng cần đặc biệt quan tâm xử lý
thỏa đáng việc phân cấp, ủy quyền mạnh mẽ hơn, đồng thời vẫn giữ vững
được sự thống nhất trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Quyền
lực trong Đảng phải được kiểm soát để tránh cả khuynh hướng lạm quyền,
lộng quyền và khuynh hướng không thực hiện đầy đủ quyền hạn được giao.
Theo đó, việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng cũng phải được kiểm
tra, giám sát, kiểm soát một cách chặt chẽ, thường xuyên, hiệu quả. Các
quy định của Ban Chấp hành Trung ương từng nhiệm kỳ về công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật đảng(8) đã có nhiều quy định, chế
tài liên quan đến kiểm soát quyền lực trong Đảng. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, hầu hết tổ chức đảng, cán bộ bị xử lý kỷ luật bằng các hình thức
khác nhau trong thời gian qua đều do vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ và quy chế làm việc; ở nhiều nơi, vẫn còn tình trạng thực hiện tự
phê bình và phê bình chưa nghiêm túc, còn nể nang, né tránh, đoàn kết
xuôi chiều; quan hệ của cấp ủy, cán bộ, đảng viên với nhân dân chưa thật
chặt chẽ; một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng can thiệp
không đúng thẩm quyền vào công việc của cơ quan nhà nước... Điều đó rõ
ràng đòi hỏi tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm soát quyền lực trong Đảng
nói chung, kiểm soát việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng nói
riêng, trước hết là đối với các cơ quan lãnh đạo đảng và người đứng đầu
cấp ủy, tổ chức đảng ở các cấp. Việc kiểm soát này cần được quy chế hóa
thành các quy chế, quy định chặt chẽ, cụ thể, có chế tài xử lý vi phạm
(nếu có) theo tinh thần “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, nhất là đối
với những lĩnh vực, vấn đề dễ xảy ra sai phạm./.
PGS. TS. TRẦN KHẮC VIỆT - PGS. TS. TRỊNH THỊ HỒNG HẠNH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
_________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.109.
(2) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.5.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2012, tr. 22-23.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.22.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.225.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.90.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.621.
(8)
Như Quy định số 86-QĐ/TW, ngày 1/6/2017 của Bộ Chính trị, về “Giám sát
trong Đảng”; Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6/7/2022 của Bộ Chính trị về "Kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm”; Quy định số 114-QĐ/TW, ngày
11/7/202, của Bộ Chính trị về "Kiểm soát quyền lực và phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”...
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)