Sáng 15/1, Phiên tòa xét xử bị cáo Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch Hội
đồng Quản trị Tổng Công ty Cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam - PVC) được
tiếp tục với phần tranh tụng công khai.
Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đã tham gia đối đáp với các luận điểm gỡ tội của các luật sư bào chữa.
PVC không đủ năng lực làm tổng thầu EPC
Đại diện Viện Kiểm sát phân tích theo tài liệu có trong hồ sơ, ngay từ
năm 2010, PVC đã khó khăn về nguồn vốn để nhận chuyển nhượng phần vốn
góp của Tổng Công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam (PVFC) tại một
số dự án.
Công văn số 3894/XLDK-TCKT ngày 9/9/2011 của PVC gửi Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam (PVN) về việc báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh và tình
hình tài chính của PVC tám tháng đầu năm 2011 có nêu: “... Các dự án PVC
nhận chuyển nhượng từ PVFC đa số là các dự án bất động sản đang gặp rất
nhiều khó khăn do thiếu vốn, dự án đình trệ, tiền bán hàng thu hồi
chậm, ảnh hưởng lớn tới dòng tiền và tình hình sản xuất kinh doanh của
PVC và các đơn vị thành viên. Do đó, để duy trì và triển khai các dự án
này, PVC đã phải hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh và trả lãi khoản vay
thay cho các đơn vị...”.
Ban lãnh đạo PVC đã biết về thực trạng tài chính của PVC và PVN được
biết tình hình tài chính của PVC là không lành mạnh khi chỉ định thầu
đối với PVC. Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tiến Đạt (nguyên Kế toán trưởng
PVC) đã khai có Báo cáo số 81 báo cáo Hội đồng Quản trị và Tổng Giám đốc
PVC về tình trạng yếu kém tài chính của PVC.
Tính đến thời điểm ký kết Hợp đồng EPC số 33 ngày 28/2/2011, hệ số khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn của PVC các năm 2009 và 2010 (năm cuối cùng
gần nhất năm ký Hợp đồng EPC số 33) đều < 1, không đáp ứng yêu cầu về
năng lực tài chính. Đáng lưu ý, trong báo cáo PVN xin Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt chỉ định PVC không nêu vấn đề này.
Đến thời điểm ngày 24/2/2011, chính bị cáo Đinh La Thăng đã ký và biết
được dự án đầu tư điều chỉnh chưa được lập, do thiết kế cơ sở là bước
thiết kế đầu tiên làm cơ sở cho việc lập dự án đầu tư. Vậy mà chỉ bốn
ngày sau, ngày 28/2/2011, Tổng Công ty Điện lực dầu khí Việt Nam
(PVPOWER) và PVC đã ký Hợp đồng EPC số 33. Thời điểm này chưa có dự án
đầu tư được phê duyệt, chưa có thiết kế kỹ thuật, chưa có tổng dự toán,
chưa có hồ sơ yêu cầu, hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu theo quy định. Do
đó, đại diện Viện Kiểm sát khẳng định: Hợp đồng EPC số 33 có nhiều nội
dung được điền trong hợp đồng nhưng không có thật.
Về năng lực kinh nghiệm, theo Viện Kiểm sát, PVC không đáp ứng kinh
nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự của nhà thầu (được thực hiện với tư
cách là nhà thầu chính hoặc nhà thầu phụ trong vòng 5 năm trở lại) theo
yêu cầu của Hồ sơ yêu cầu.
Cụ thể, hồ sơ yêu cầu quy định đối với kinh nghiệm về thiết kế là một
hợp đồng tương tự. Tuy nhiên, trong số các hợp đồng cung cấp trong Hồ sơ
đề xuất của nhà thầu PVC không có hợp đồng thiết kế cho dự án Nhà máy
nhiệt điện để đảm bảo tính chất tương tự. Hai hợp đồng liên quan đến dự
án nhiệt điện là dự án Nhiệt điện Vũng Áng và dự án Nhà máy Nhiệt điện
Nhơn Trạch 2, PVC chỉ thi công các hạng mục xây dựng, không thực hiện
công tác thiết kế.
Chính bị cáo Đinh La Thăng, bị cáo Trịnh Xuân Thanh tại phiên tòa thừa
nhận PVC không đủ năng lực thực hiện EPC Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình
II, thời điểm đó chỉ có Lilama là có đủ năng lực.
Đại diện Viện Kiểm sát đã chỉ ra hệ lụy từ việc không có năng lực tổng
thầu là rất lớn, đó là việc dự án thi công kéo dài gấp đôi, nếu phạt Hợp
đồng EPC sẽ lên tới hàng trăm triệu USD, bản thân PVC cũng chịu chi phí
phát sinh rất lớn (Theo Báo cáo 117 ngày 6/1/2017, PVC chi phí phát
sinh tới 155 tỷ đồng/năm).
Trên cơ sở những phân tích trên, công tố viên khẳng định do PVC không đủ
năng lực thực hiện dự án nên không thể ưu tiên PVC làm tổng thầu để
thực hiện chủ trương “Ưu tiên dùng hàng Việt Nam.”
Mối quan hệ mang tính “lợi ích nhóm” của các bị cáo
Trong phần đối đáp, công tố viên đã nêu tại công văn số 906/VPCP-KTN
ngày 17/2/2011 của Chính phủ trả lời văn bản số 817/DKVN-HĐQT ngày
28/1/2011 của PVN (do bị cáo Đinh La Thăng ký nội dung đề xuất cho PVC
là tổng thầu dự án) đã thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Trong
đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo PVN chịu trách nhiệm về việc lựa chọn
nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các gói thầu, có hồ sơ
dự thầu/hồ sơ đề xuất đáp ứng yêu cầu về mặt kỹ thuật, đảm bảo chất
lượng, tiến độ thực hiện dự án và hiệu quả kinh tế.
Như vậy, có cơ sở khẳng định Chính phủ không có bất cứ văn bản nào nêu
đồng ý cho PVN lựa chọn PVC làm tổng thầu như một số luật sư đề cập mà
yêu cầu PVN phải lựa chọn nhà thầu có năng lực và kinh nghiệm thực hiện
Hợp đồng EPC.
Cũng theo đại diện Viện Kiểm sát, mặc dù biết rõ PVC đang gặp khó khăn
về tài chính, không đủ năng lực cũng như kinh nghiệm thực hiện thi công
dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, để tạo điều kiện cho PVC, Đinh La
Thăng vẫn ưu ái bỏ qua các quy định của pháp luật để chỉ định PVC làm
tổng thầu, sau đó chỉ đạo các bị cáo tại PVN và các đối tượng liên quan
tại Tổng Công ty Điện lực dầu khí Việt Nam (PVPower) ký hợp đồng EPC và
tạm ứng tiền cho PVC để bị cáo Thanh và các đồng phạm tại PVC sử dụng
trái mục đích gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước. Qua đó cho thấy rõ
mối quan hệ mang tính lợi ích nhóm của các bị cáo.
Việc tạm ứng và chi tạm ứng hoàn toàn trái quy định
Theo như phân tích, Hợp đồng EPC số 33 là không đủ điều kiện để ký. Do
vậy, việc PVN tạm ứng tiền cho PVC là trái quy định pháp luật, cho thấy
thực chất việc ký hợp đồng không phải là để PVN tạm ứng cho PVC thực
hiện thi công gói thầu Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 mà chỉ nhằm
mục đích hợp thức hóa việc chuyển tiền cho PVC sử dụng sai mục đích.
Việc thu PVC thu hồi 1.240 tỷ đồng (tính đến ngày 13/9/2016) là thu hồi
nội bộ tại PVC không liên quan việc thu hồi tiền tạm ứng của chủ đầu tư
(PVN) đối với số tiền đã ứng cho PVC nhưng không sử dụng vào Dự án. Đến
ngày 20/3/2012, chủ đầu tư mới thu hồi được 172 tỷ đồng trong tổng số
196 tỷ đồng và 6,6 triệu USD sử dụng vào Dự án.
Như vậy, trong thời gian từ ngày PVN ứng tiền cho PVC cho đến ngày PVN
có công văn thu hồi tiền tạm ứng PVC sử dụng sai mục đích
(23/5/2011-20/3/2012), PVC đã chiếm dụng của PVN 1.115 tỷ đồng. Số thiệt
hại được tính trong Kết luận giám định chỉ dừng lại tại ngày 20/3/2012,
cách xa thời điểm PVN thu hồi gần đủ số tiền tạm ứng cho PVC là ngày
20/11/2017 (với số tiền 1.087 tỷ đồng).
Như vậy, theo công tố viên, không có căn cứ nào cho rằng, PVN đã thu hồi thừa số tiền tạm ứng như các luật sư và bị cáo nêu.
Mặt khác, trong số tiền thu hồi tiền tạm ứng 1.240 tỷ đồng của PVC có
nguồn sử dụng tiền tăng vốn điều lệ PVC là 317,2 tỷ đồng, thu hồi từ
việc thoái vốn và thu hồi từ các dự án khác là 515,3 tỷ đồng. Theo Viện
Kiểm sát, về nguyên tắc, việc coi số tiền thoái vốn do chuyển nhượng các
khoản đầu tư của PVC là tiền thu hồi tiền tạm ứng cho Dự án Nhà máy
Nhiệt điện Thái Bình 2 là không hợp lý.
Điều chỉnh hợp lý qua diễn biến tại phiên tòa
Dựa trên thực tế quá trình thẩm vấn và tranh luận công khai tại phiên
tòa, Viện Kiểm sát đã có bổ sung và thay đổi một số quan điểm luận tội,
phù hợp với diễn biến phiên tòa và lời khai của các bị cáo.
Cụ thể, theo Viện Kiểm sát, đối với bị cáo Bùi Mạnh Hiển (nguyên Chánh
Văn phòng PVC), quá trình điều tra và tại phiên tòa ngoài các tình tiết
giảm nhẹ được nêu trong luận tội của Viện Kiểm sát, bị cáo Hiển còn có
tình tiết giảm nhẹ là tích cực hợp tác với cơ quan pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án.
Bị cáo Lê Đình Mậu (nguyên Phó Trưởng Ban Tài chính kế toán và kiểm toán
PVN) vai trò phạm tội có mức độ; bị cáo Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc
Ban điều hành Dự án Vũng Áng-Quảng Trạch) và Phạm Tiến Đạt (nguyên Kế
toán trưởng PVC) có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đặc biệt là thái độ tích
cực hợp tác với cơ quan pháp luật giải quyết sớm vụ án. Do vậy, đề nghị
Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho các bị cáo so với mức đề nghị trước
đó của Viện Kiểm sát.
Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Quý (nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị
PVC), đại diện Viện Kiểm sát cũng đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem
xét giảm nhẹ hình phạt.
Về trách nhiệm dân sự, đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử
không buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Quý, Lê Đình Mậu, Nguyễn Mạnh Tiến
(nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC), Phạm Tiến Đạt phải liên đới bồi thường
số tiền thiệt hại hơn 119,8 tỷ đồng.
Còn các vấn đề khác, Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề cập trong phần luận tội./.
(TTXVN)