Thứ Hai, 1/10/2018 22:1'(GMT+7)
30 năm thu hút FDI: Nâng tầm tiếp cận nền công nghệ thế giới
Để tiếp cận được với nền công nghệ của thế giới, Việt Nam cần tiếp cận
từ 3 phía: thứ nhất là sự chủ động của doanh nghiệp trong nước; thứ hai
là sự hỗ trợ về chính sách cũng như nguồn lực của Nhà nước; thứ ba là từ
đối tác.
Chia sẻ với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam, Cục trưởng Cục Đầu tư nước
ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Đỗ Nhất Hoàng tin tưởng, trong tương lai
doanh nghiệp Việt Nam sẽ nâng tầm và có thể tiếp cận được với nền công
nghệ tiên tiến trên thế giới.
-Trải qua 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), đóng góp của khu
vực này là rất rõ. Tuy nhiên, vẫn còn băn khoăn giữa cái được và mất của
dòng vốn này. Ông có thể phân tích rõ hơn?
Ông Đỗ Nhất Hoàng: Nhìn nhận lại 30 năm thu hút FDI,
theo tôi, cái được nhiều hơn, còn nói cái mất là chưa chính xác, mà
chúng ta cần tiếp tục cải thiện. Thu hút đầu tư nước ngoài khơi cho Việt
Nam nguồn đầu tư trong nước. Đặc biệt, trong thời gian đầu, FDI đã giúp
Việt Nam xóa bỏ hàng rào cấm vận, tiếp cận được với thế giới. Và điểm
rõ nét nhất của một nền kinh tế thị trường là khi nguồn vốn FDI vào Việt
Nam đã cùng với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp tư nhân các thành
phần kinh tế khác giúp cho Việt Nam hoàn thiện nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế thế giới;
đồng thời, giúp Việt Nam chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tiếp nhận được
công nghệ cao, ứng dụng công nghệ quản trị tiên tiến, hiện đại…
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, tôi thấy chúng ta cần tiếp tục hoàn
thiện trong thu hút FDI, đó là tính lan tỏa của khu vực FDI chưa cao;
mặc dù, chúng ta đã tiếp cận được với nền công nghệ cao và hiện đại
nhưng việc chuyển giao công nghệ của khu vực FDI với khu vực trong nước
chưa được như kỳ vọng. Đặc biệt, trong khu vực FDI hoạt động vẫn còn
hiện tượng chuyển giá, trốn thuế, công nghệ lạc hậu và một số doanh
nghiệp vẫn để còn hiện tượng ô nhiễm môi trường…
-Như ông vừa nói, khu vực FDI không chỉ đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế mà còn góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và có những đóng
góp xã hội khác. Ông có thể nói rõ hơn về điều này?
Ông Đỗ Nhất Hoàng: Như chúng ta đã biết, Việt Nam là
một nước có nền nông nghiệp lạc hậu nhưng sau khi có chính sách mở cửa
và đổi mới, Việt Nam đã ban hành khung pháp luật về đầu tư, đó là Luật
Đầu tư. Khi đó, Việt Nam đã đón nhận các nhà đầu tư và đến nay, đã có
334 tỷ USD với 26.500 dự án FDI, với vốn thực hiện khoảng 184 tỷ USD. Và
đặc biệt, đầu tư nước ngoài đã giúp Việt Nam chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, từ một nền nông nghiệp lạc hậu sang một nền công nghiệp tiên tiến.
Đến nay, khu vực đầu tư nước ngoài đã đóng góp 58,2% trong ngành công
nghiệp, chế biến chế tạo và tạo ra 50% giá trị công nghiệp của cả nước;
đồng thời, tạo ra việc làm cho 3,6 triệu lao động trực tiếp, hơn 5 triệu
việc làm gián tiếp. FDI đã làm thay đổi nhiều vùng miền của cả nước. Ví
dụ như: Đồng Nai và Bình Dương là những tỉnh nông nghiệp nghèo nhưng
đến nay trở thành những tỉnh rất mạnh về công nghiệp và đóng góp của FDI
là chủ yếu. Hai địa phương này là điển hình của cả nước, đặc biệt trong
thu hút FDI.
-Xin ông cho biết, sau 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam có
thể rút ra bài học kinh nghiệm gì trong việc quản lý nguồn vốn này?
Ông Đỗ Nhất Hoàng: Tôi nghĩ rằng, bài học rút ra là cần
thu hút đầu tư có chọn lọc, thu hút những dự án công nghệ cao, công
nghệ hiện đại, ít tiêu hao năng lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên, không ô nhiễm môi trường.
Tiếp đó là cần nâng cao năng lực thực thi của bộ máy nhà nước, làm sao
từ luật pháp đến thực thi chính sách phải đi vào cuộc sống một cách
thuận lợi để các nhà đầu tư tiếp cận được với thị trường, triển khai các
hoạt động kinh doanh một cách dễ dàng.
Việt Nam cũng cần sử dụng hiệu quả nguồn vốn và công nghệ của nước
ngoài. Theo đó, cần phải có những chính sách để làm sao khu vực đầu tư
nước ngoài cùng khu vực đầu tư trong nước cộng hưởng với nhau, như vậy
sẽ đóng góp tốt hơn cho kinh tế-xã hội.
-Thế giới đang bước vào kỷ nguyên 4.0, Việt Nam cũng đang đứng trước
thách thức là làm thế nào để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài
hàng đầu về công nghệ thông tin. Vậy, theo ông Việt Nam cần phải làm gì
để thu hút được dòng vốn vào khu vực này?
Ông Đỗ Nhất Hoàng: Để thu hút các nhà đầu tư vào khu
vực này, trước mắt, chúng ta cần rà soát lại hệ thống pháp luật để có
những quy định đối với khu vực công nghệ cao, công nghệ 4.0 để doanh
nghiệp cạnh tranh hơn nữa.
Bên cạnh đó, chúng ta cần có những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp
trong nước, để có thể nâng tầm được. Thực tế, đến nay, đã có một số
doanh nghiệp như: FPT, Viettel.. tuy nhiên số doanh nghiệp này không
nhiều. Và các doanh nghiệp này cũng đã chủ động vươn ra thế giới và được
thế giới công nhận, khẳng định.
Tuy nhiên, để lan tỏa hơn nữa, chúng ta đã có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa và có chương trình khởi nghiệp cùng nhiều chính sách, nhiều
chương trình khác nữa.. Tôi hy vọng, chương trình khởi nghiệp sẽ phát
huy được hơn nữa và Việt Nam sẽ có đội hình khởi nghiệp lớn mạnh để cùng
đồng hành tiếp cận cũng như phát triển nền công nghệ 4.0.
-Theo đánh giá, việc chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI
tới doanh nghiệp trong nước chưa được như kỳ vọng và nguyên nhân được
cho là xuất phát từ thực tế khả năng tiếp nhận của doanh nghiệp trong
nước. Theo ông giải pháp cho vấn đề này như thế nào?
Ông Đỗ Nhất Hoàng: Hiện nay Việt Nam là thành viên của
WTO; trong WTO chúng ta đã có cam kết là không có quy định yêu cầu bắt
buộc chuyển giao công nghệ. Cùng đó, luật pháp của Việt Nam quy định
chuyển giao công nghệ là trên tinh thần khuyến khích. Thực tế, trên 80%
doanh nghiệp FDI là 100% vốn đầu tư nước ngoài. Mà 100% vốn đầu tư nước
ngoài thì sẽ rất khó có việc chuyển giao trong nội bộ. Do đó, chúng ta
cần nhìn việc chuyển giao công nghệ theo góc nhìn rộng hơn.
Tuy nhiên, hiện nay, việc chuyển giao công nghệ theo hình thức gián tiếp
rất nhiều như: qua học hỏi, sao chép công nghệ, qua đặt hàng của các
nhà đầu tư. Cuối cùng các doanh nghiệp Việt Nam đi mua công nghệ, thuê
chuyên gia để làm sao làm ra các sản phẩm, các dịch vụ đáp ứng được tiêu
chuẩn của các doanh nghiệp nước ngoài.
Trên cơ sở đó, doanh nghiệp Việt Nam có được công nghệ và làm ra các sản
phẩm cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, cung cấp cho
nhiều thị trường khác. Để có được công nghệ tốt hơn nữa, đáp ứng được kỳ
vọng của các doanh nghiệp trong nước, chúng ta cần hỗ trợ các doanh
nghiệp trong nước. Theo đó, để doanh nghiệp tiếp cận được với nền công
nghệ của thế giới, chúng ta cần từ 3 phía: thứ nhất là sự chủ động của
doanh nghiệp, thứ hai là sự hỗ trợ về chính sách, nguồn lực của Nhà
nước; thứ 3 là từ đối tác. Nếu làm tốt 3 nguồn đó, tôi tin rằng, trong
tương lai doanh nghiệp Việt Nam sẽ nâng tầm, và có thể tiếp cận được với
nền công nghệ thế giới.
-Qua 30 năm nhìn lại, định hướng trong thời gian tới, chúng ta cần
khắc phục những bất cập gì trong chính sách để thu hút được FDI hiệu
quả, bền vững hơn? Và có cần sửa đổi gì trong Luật Đầu tư nước ngoài?
Ông Đỗ Nhất Hoàng: Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
giao cho Cục Đầu tư nước ngoài rà soát lại Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp để trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sau đó trình Chính phủ trong thời
gian tới. Nội dung rà soát lại là khắc phục sự chồng chéo giữa Luật Đầu
tư với các luật khác; gạt bỏ sửa đổi những quy định; xóa bỏ những điều
kiện không cần thiết trong việc tiếp cận thị trường cũng như trong quá
trình tiếp cận đầu tư kinh doanh.
Trên thực tế đã có nhiều bộ, ngành đã xóa bỏ những điều kiện này. Bên
cạnh đó, cũng cần rà soát những quy định, quy trình thủ tục nào rườm rà
không cần thiết thì cắt bỏ; đồng thời, cần thực hiện công tác tiền kiểm
sang hậu kiểm để giúp cho các nhà đầu tư tiếp cận được với thị trường
một cách nhanh nhất.
Xin cảm ơn ông!