Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các ngành công nghiệp văn hóa và công nghiệp sáng tạo đã và đang phát triển mạnh mẽ, trở thành nguồn sức mạnh mềm quan trọng, xuyên thủng các đường biên giới mềm trở thành những làn sóng cạnh tranh mạnh mẽ thì chủ quyền văn hóa, an ninh văn hóa còn được nhấn mạnh ở những phương diện rất quan trọng:
Một là, tiếp cận từ quyền sở hữu trí tuệ vốn đã được quy định bởi Công ước Berne và nhiều bộ luật của các quốc gia. Tuy vậy, thực tế ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đang khá phổ biến, với nhiều hình thức khác nhau và với diễn thế ngày một phức tạp. UNESCO và nhiều nước đều coi đây là một trong những vấn đề lớn về an ninh văn hóa.
Cũng từ phương diện này, một vấn đề phức tạp hơn, chưa được nhiều người quan tâm đầy đủ là đảm bảo quyền của chủ nhân văn hóa. Bất kỳ sản phẩm văn hóa, di sản vật thể hay phi vật thể nào cũng đều có chủ nhân tạo ra chúng. Họ chính là chủ nhân tác tạo, hay chủ nhân đích thực của di sản. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều di sản không còn thuộc sở hữu của chủ nhân tác tạo, vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Chủ nhân sở hữu là những cộng đồng dân cư và chính quyền địa phương nơi di sản đang tồn tại. Họ sở hữu và chiếm hữu, quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản, nhưng nhiều khi không có mối liên hệ nào với chủ nhân tác tạo, vì họ có thể sống cách nhau nhiều thế kỷ và không hề có mối quan hệ huyết thống hay thừa kế nào. Vì vậy, khi đảm bảo an ninh văn hóa là vừa phải đảm bảo những giá trị của di sản do chủ nhân tác tạo gửi gắm vào di sản, đồng thời phải đảm bảo cả quyền và lợi ích của chủ nhân sở hữu di sản theo các quy định pháp lý hiện hành.
Hai là, tiếp cận từ quan điểm thị trường văn hóa và nguy cơ thao túng giá trị, thao túng văn hóa và xâm lăng văn hóa. Đối với sự phát triển của công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo thì thị trường chắc chắn đóng vai trò rất quan trọng. Bằng nhiều cách thức khác nhau, các sản phẩm công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo của các công ty, quốc gia sẽ tìm cách chiếm lĩnh, tiến tới thống trị các thị trường - từ quốc nội tới quốc tế. Trên cơ sở chiếm lĩnh được thị trường, các hình thái độc quyền chính thức hoặc phi chính thức sẽ xuất hiện, dần dần, thông qua đó họ sẽ tìm cách định hướng sở thích tiêu dùng của nhân dân các nước đối với sản phẩm của họ. Các loại hình hàng hóa văn hóa như thời trang, điện ảnh, internet, mạng xã hội, phần mềm, ứng dụng điện thoại thông minh... là những ví dụ điển hình của quá trình này.
Điều cần nhấn mạnh là thông qua thao túng thị trường văn hóa và định hướng sở thích của người tiêu dùng, các thế lực sở hữu sức mạnh công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo sẽ thao túng giá trị, thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức và niềm tin của người dân. Thao túng giá trị chính là điều mà cha đẻ của lý thuyết công nghiệp văn hóa là Theodor Andorno và Max Hokcheimer đã cảnh báo từ ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hãy thử hình dung, một khi người dân Việt Nam (như hiện nay) bé thì chơi đồ chơi sản xuất ở Trung Quốc, xem phim hoạt hình Trung Quốc, lớn thì xem phim dã sử, phim kiếm hiệp Trung Quốc, mua hàng hóa thì phần lớn cũng là đồ Trung Quốc, sử dụng các phần mềm Trung Quốc... thì rồi sẽ ra sao? Họ sẽ hình dung thế nào là thiện-ác, thế nào là huynh đệ, tỉ muội theo cách hình dung của người Trung Quốc. Đó là kết quả logic nếu như cái quy trình “Blockchain” văn hóa kiểu này không được thay đổi!
Ba là, tiếp cận từ việc giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, phát triển, nếu không đúng cách, không dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc thì sẽ làm sai lệch hoặc hủy hoại giá trị di sản văn hóa. Đây chính là tình hình đáng quan ngại nhất của lĩnh vực văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Người ta đã từng phạm phải sai lầm khi coi phần lớn các di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng là “mê tín dị đoan”, cho nên đã từng có “phong trào” đập phá đình, chùa, đền, miếu, xóa bỏ lễ hội ở hầu hết các tỉnh ở miền Bắc trong những năm 1960-1970, để lại hậu quả vô cùng nặng nề. Gần đây, trong thời kỳ Đổi mới lại xuất hiện hiện tượng sao chép lễ hội một cách thô thiển, khiến cho nhiều lễ hội bị “đồng phục hóa”, thậm chí bị biến thành những trò nhảm nhí để câu khách. Không ít di sản vật thể và phi vật thể đã bị làm cho sai lệch, bị bóp méo, bị xuyên tạc, thậm chí bị tiêu diệt trong quá trình đô thị hóa gấp gáp.
Bốn là, tiếp cận từ phương diện quản lý văn hóa, có thể thấy những sai phạm, bất cập theo hai hướng, hoặc quá chặt chẽ theo kiểu võ đoán hoặc lại quá buông lỏng khiến cho môi trường văn hóa đã và đang bị đầu độc, mất an ninh, an toàn khá nghiêm trọng. Trước hết, là hiện tượng võ đoán, máy móc, nặng về áp đặt khiến cho nhiều giá trị tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại không được trao truyền đúng cách, thiếu hiệu quả. Trong gia đình thì thế hệ trước áp đặt giá trị cho thế hệ sau, trong nhà trường thì thầy cô áp đặt học trò bằng nhiều cách, từ “văn mẫu”, “sử mẫu” cho tới những phong trào thi đua hình thức, nặng bệnh thành tích. Trong xã hội thì trào lưu “ném đá” tràn lan, độc ác, “bóp chết” bất kỳ cái gì mới, khác biệt, dù là cái tốt hay cái xấu. Căn bệnh này lại luôn song trùng với hiện tượng bất cập, buông lỏng đến mức mất kiểm soát trong công tác quản lý văn hóa. Chưa bao giờ các biểu hiện văn hóa đồi trụy, phản nhân loại, truyền bá cái xấu, cái ác thậm chí cả những thông tin phản động chính trị, v.v. có thể dễ dàng phát tán và lan rộng trên các không gian ảo như thế! Chưa bao giờ “rác văn hóa” lại tràn lan từ không gian ảo đến không gian thật nhiều như thế!