TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Quan
niệm về “Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, vừa là
một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân là mọi người dân nước Việt, là mỗi
người “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu -
nghèo, quý - tiện, trong đó công - nông chiếm tuyệt đại đa số - đó là
nền tảng của quốc dân. Người thường gọi Nhân dân bằng nhiều cách gọi
khác nhau, như “dân”, “dân ta”, “dân chúng” hay “đồng bào”, thể hiện sự
gần gũi và dễ hiểu. Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn khẳng định vai trò, sức mạnh của Nhân dân, căn dặn “Đối với
dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”1,
bởi “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý
nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”2.
Truyền
thống “trọng dân” - một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
được Đảng ta kế thừa và phát huy, là tiền đề để Đảng ta khẳng định vai
trò, vị trí của Nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý
bằng Nhân dân”3; “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của Nhân dân”4; “Gốc có vững cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”5.
Đảng có sứ mệnh cao cả lãnh đạo Nhân dân, song toàn bộ sức mạnh của
Đảng bắt nguồn từ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; Đảng vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Sức
mạnh của Nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ, tối đa khi được một Đảng
thật sự cách mạng lãnh đạo. Chỉ khi sức dân được huy động, được tổ chức,
được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì mới có thể trở thành sức
mạnh vô địch. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò
chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong quá trình đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải
qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất
nước chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Có được những thành tựu đó là nhờ sự
kiên trì tư tưởng “trọng dân” và vận dụng sáng tạo bài học “Dân là gốc”,
“Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để huy động sức mạnh
Nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trải qua các nhiệm kỳ,
trong văn kiện Đại hội, Đảng ta đều tập trung nhấn mạnh vị trí, vai trò
quan trọng của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn
bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tại Đại hội XIII, lần đầu tiên
trong Văn kiện Đại hội, Đảng ta xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ
thể của Nhân dân với phương hướng “Thực hành và phát huy rộng rãi dân
chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân;
củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”6; “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”7.
Có thể thấy, tại Đại hội XIII của Đảng, quan điểm này được thể hiện
nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong văn kiện, trên tất cả các nội
dung, lĩnh vực, từ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật đến việc tổ chức thực hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại; trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Đồng thời, để thực hiện quan điểm này một cách hiệu quả, thiết thực, Đại
hội XIII đã cụ thể hóa thành những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp có
tính tổng thể, bao trùm và liên quan trực tiếp đến lợi ích “thụ hưởng”
của mọi người dân. Điều đó thể hiện tính ưu việt, nổi trội và bản chất
tốt đẹp, nhân văn của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong
bài phát biểu tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp
tục khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong
toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; nhấn mạnh
Đảng, Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm
tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm
chủ của Nhân dân8.
Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ hơn quan điểm “Nhân
dân là trung tâm” của Đảng ta, nhấn mạnh “… chúng ta cần một hệ thống
chính trị mà quyền lợi thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ
lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”9.
Những quan điểm này đã một lần nữa khẳng định trong quá trình phát
triển nhận thức lý luận và lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, Nhân dân luôn
được đặt ở vị trí trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển đất
nước.
Sự lãnh đạo của Đảng hướng vào vị trí trung tâm là Nhân dân, phải
khơi thông những nguồn lực và sự sáng tạo của Nhân dân, tạo sự chuyển
động tích cực của Nhân dân. “Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự
xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, dựa vào
Nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”10.
MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ, VỊ TRÍ TRUNG TÂM CỦA NHÂN DÂN TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Đại
hội XIII của Đảng khẳng định đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn
đó chính là kết quả của ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn
kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta.
Với các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025,
2030 và tầm nhìn đến năm 2045, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung
nhiều nội dung mới, tập trung đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm
của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong suốt quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật; thực
hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ”, trong đó Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội làm nòng cốt.
Văn kiện Đại hội XIII cũng xác định rõ yêu cầu, nhiệm
vụ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa
vào Nhân dân để xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân
vận; có cơ chế phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện trong tình hình mới.
Dự
báo trong thời gian tới, bên cạnh những thuận lợi, tình hình thế giới,
khu vực và trong nước sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp và những khó khăn,
thách thức đan xen. Để giảm thiểu tối đa những vấn đề phát sinh có thể
tác động đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị, việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và
đảm bảo công bằng xã hội,… trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp
đến mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, các cấp uỷ, chính
quyền, tổ chức đoàn thể cần quán triệt và tập trung thực hiện các nhiệm
vụ, giải pháp như sau:
Một
là, kiên định bài học “Dân là gốc”, đảm bảo thực chất, chặt chẽ trong
xây dựng và thúc đẩy mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.
Là
một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị, sự nhận thức, phát triển lý luận về bài học “Dân là
gốc”, “Dân là trung tâm” thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tư
tưởng, quan điểm của Đảng khẳng định qua văn kiện các kỳ Đại hội kể từ
khi tiến hành đổi mới đất nước năm 1986 đến nay. Quá trình thực hiện
công cuộc đổi mới, mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, ngày càng hoàn
thiện.
Hiến pháp năm 2013 cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong mối quan
hệ với Nhân dân tại Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp cũng quy
định rõ tại Điều 2, Điều 3: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện”.
Hai
là, đảm bảo nguyên tắc “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” trong
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Lần
đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được khẳng định tại văn kiện
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994). Đến năm
2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật ngữ
này được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc
xây dựng nhà nước pháp quyền. Từ đó đến nay, vấn đề xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trở thành một nội dung
quan trọng trong đường lối của Đảng và dần được hoàn thiện qua các kỳ
Đại hội.
Cùng với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đã từng bước xây dựng và
hoàn thiện lý luận về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khẳng
định xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá
trình tiếp cận, vận dụng có chọn lọc giá trị tốt đẹp của các nền dân chủ
đương đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong đó vấn đề trọng tâm
là phát huy vai trò, vị trí của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng, hoàn thiện phương thức
lãnh đạo, phương châm công tác dân vận trong thời kỳ mới, Đại hội XIII
của Đảng đã bổ sung 2 nội dung quan trọng là “dân giám sát, dân thụ
hưởng” và hoàn thiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”11. Đây là một điểm mới, nổi bật của
Đảng ta trong vai trò là đảng cầm quyền duy nhất, đã nhấn mạnh quyền lực
thuộc về Nhân dân, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tại
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022
về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn mới", khẳng định các hình thức thực hiện dân chủ
đã từng bước được hoàn thiện và được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật.
Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể xã hội, các cơ
quan dân cử được mở rộng. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xử lý các hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng. Đảng
luôn sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với Nhân dân, lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân; đã tập trung lãnh đạo đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết kịp thời những bức xúc,
kiến nghị chính đáng của Nhân dân; quyết liệt triển khai cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng; tạo cơ chế thuận lợi để Nhân dân tham gia giám
sát, phản biện xã hội; tổ chức có hiệu quả, thực chất việc Nhân dân tham
gia giám sát, góp ý đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân trong xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Ba là, lấy Nhân dân làm trung tâm trong xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật.
Trên
cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội,
Đảng ta đã thực hiện đồng bộ các giải pháp tập trung chăm lo đời sống
vật chất và tinh thần cho Nhân dân - đây là sứ mệnh của Đảng, là mục
tiêu và bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân.
Quan điểm về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng,
Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, kế hoạch
5 năm và hằng năm; thể hiện trong từng giai đoạn, từng thời kỳ gắn với
những chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội
của đất nước.
Trong
suốt quá trình đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã tạo được
sức mạnh đoàn kết, sự đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân để tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương và đạt
được những thành tựu vượt bậc. Từ một đất nước với cơ sở vật chất - kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay,
Việt Nam đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung
bình; Nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc
không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an
ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm.
Theo số liệu thống
kê công bố đầu năm 2024, quy mô GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng
433,7 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực, tăng khoảng 50 lần so với năm đầu
thực hiện đổi mới. GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2023 theo
giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD
(năm 1986 là 150 USD)12. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 giảm
xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo tại
các huyện còn khoảng 33%. Đặc biệt, trong giai đoạn 1986 - 2022, Việt
Nam lọt top 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhanh nhất thế giới, đứng thứ 4
ASEAN, đứng thứ 40 trên thế giới13…
Những kết quả, thành tựu đã đạt
được là minh chứng cho việc Đảng, Nhà nước luôn không ngừng nỗ lực để
thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, hướng về Nhân
dân, lấy Nhân dân làm trung tâm trong xây dựng, hoạch định chủ trương,
đường lối và ban hành các chính sách, pháp luật trong thực tiễn.
Bốn
là, tích cực đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về công
tác dân vận; phát huy cao độ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân
dân, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân trong chiến lược phát
triển đất nước giai đoạn mới.
Trong
mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “Dân là gốc”, thật sự
tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì
thực hiện đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng” và “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi
ích chính đáng của Nhân dân.
Đảng đã chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời
sống, lợi ích của Nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với
Nhân dân; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự
hài lòng và tín nhiệm của Nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá
chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
94 năm có
Đảng, qua 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước là chặng đường
vinh quang với sự thể hiện sinh động sự gắn kết Đảng với Nhân dân là
một, thực tiễn đã chứng minh, đây không phải là khẩu hiệu mà là bản chất
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân - “ý Đảng, lòng Dân”. Nhân
dân luôn là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Thông qua mối quan hệ này, Đảng đã phát huy được vai trò,
trách nhiệm của Nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền; tập
hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của Nhân dân
để thực hiện công cuộc đổi mới ngày càng hiệu quả, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
Xuất
phát từ thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân, Đảng đã ban
hành nhiều chủ trương, giải pháp để xây dựng, củng cố mối quan hệ mật
thiết với Nhân dân, dựa vào Dân để xây dựng Đảng và đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có
đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế, quy luật vận
động, phát triển của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị
một Đảng lãnh đạo, cầm quyền; phù hợp với lợi ích, nguyện vọng hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc./.
BÙI THỊ MINH HOÀI
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng Ban Dân vận Trung ương
__________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr.169.
(2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.63, 453, 453.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 502.
(6) (7) (10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.38, 51, 96-97, 27.
8. Xem: Tạp chí Cộng sản, số 973 (tháng 9/2021), tr.6.
9. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.20-22.
12. Số
liệu từ Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 của Tổng cục Thống
kê cung cấp.
13. Số
liệu từ Trang thông tin điện tử Ban Kinh tế Trung ương.
(Nguồn: danvan.vn)