Văn hoá thẩm mỹ không chỉ tồn tại với tư cách thực thể mà còn tồn tại với tư cách thăng hoa, nó hiện diện trong mọi hình thức hoạt động người và tác động toàn diện tới nhân cách.
Trong giáo dục đại học, cao đẳng, ngoài công tác tổ chức quản lý, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật thì công tác giảng dạy của giảng viên giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố quyết định nhất đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Bởi sản phẩm của công tác giảng dạy của giảng viên là sự trang bị, định hướng tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, giúp hình thành nhân cách cao đẹp cho sinh viên. Hơn thế, công tác giảng dạy của giảng viên còn bao hàm những giá trị văn hoá thẩm mỹ - văn hoá thẩm mỹ tồn tại với tư cách thăng hoa. Đặc trưng trong công tác giảng dạy của giảng viên là tính mô phạm, tính định hướng nghề nghiệp và tính định hướng giá trị trong nhân cách sinh viên, với mục tiêu đào tạo ra những trí thức tương lai cho đất nước. Vì vậy, giá trị văn hoá thẩm mỹ trong công tác giảng dạy của giảng viên thể hiện bằng chính cái đẹp, cái tích cực, cái tiến bộ, theo xu hướng chân - thiện - mỹ, chứ không phải bằng các hình thức biến thể khác của cái đẹp. Công tác giảng dạy của giảng viên các trường cao đẳng, đại học ở nước ta hiện nay bên cạnh những giá trị văn hoá thẩm mỹ cao còn tồn tại những hạn chế, tác động trái chiều tới sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, cùng với sự gia tăng các trường cao đẳng, đại học, số lượng giảng viên cũng tăng lên nhanh chóng. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ giảng viên tăng bình quân/năm giai đoạn 2006-2010 là 6,42% đối với đại học và 16,9% đối với cao đẳng. Riêng năm học 2009-2010, cả nước có 69.581 giảng viên đại học, cao đẳng (tăng 13,7% so với năm học 2008-2009). Năm học 2010 – 2011 cả nước có 413 trường cao đẳng, đại học với 78,3 nghìn giảng viên.
Trình độ và kỹ năng sư phạm của đội ngũ giảng viên cũng ngày càng được nâng cao. Điều này được thể hiện thông qua số lượng giảng viên có học hàm, học vị không ngừng gia tăng. Trong giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ tăng bình quân/năm là 4,4%, có trình độ thạc sĩ tăng bình quân/ năm là 10,8%; tỷ lệ giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sĩ tăng bình quân/ năm là 44,8%, có trình độ thạc sĩ tăng bình quân/ năm là 23,2%. Riêng năm học 2009-2010, số lượng giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ là 6.448 người (chiếm 14%), trình độ thạc sĩ là 19.856 người (chiếm 43,2%); số lượng giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sĩ là 656 người (chiếm 2,7%), có trình độ thạc sĩ là 6.859 người (chiếm 27,9%). Số lượng giảng viên có chức danh Giáo sư là 262 người (chiếm 0,57%), có chức danh Phó Giáo sư là 1.855 người (chiếm 4,04%). Số lượng giáo sư, phó giáo sư trong các trường đại học chiếm khoảng 50% tổng số Giáo sư, Phó Giáo sư trong cả nước (1) (2).
Trong những năm qua, đội ngũ giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta bên cạnh việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn đã chú trọng học hỏi để có được phương pháp giảng dạy thích hợp. Các khoa, các trường thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo về đổi mới phương pháp và coi đây là công tác sinh hoạt chuyên môn. Mới đây các chuyên gia thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Vụ Giáo dục ĐH, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã tiến hành nghiên cứu thực trạng đổi mới phương pháp giảng dạy ở đại học thông qua khảo sát 367 nhà quản lí cấp trường và cấp khoa; 1.342 giảng viên, 1.386 sinh viên; phỏng vấn sâu tại 7 trường đại học… Kết quả cho thấy phương pháp thuyết trình vẫn là phương pháp giảng dạy chủ yếu song đã kết hợp xen kẽ tương đối có hiệu quả với các phương pháp giảng dạy hiện đại.
Trong 21 phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nêu ra có 9 phương pháp được áp dụng phổ biến ở các trường đại học. Đó là phương pháp thuyết trình, thuyết trình kết hợp đàm thoại; thuyết trình kết hợp sử dụng các tài liệu nghe - nhìn; làm việc theo nhóm; seminar; thí nghiệm - thực hành; dạy học với sự trợ giúp của máy tính; thực tập; tổ chức cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Cũng theo nghiên cứu này, 87,2% các nhà quản lí và giảng viên các trường đại học quan niệm đúng về bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy học. Cũng đa số cho rằng việc đổi mới phương pháp dạy học cần được tiến hành một cách đồng bộ với việc đổi mới chương trình đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên để nâng cao chất lượng đào tạo ở đại học. Trong các nhân tố thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học, nhân tố “giảng viên ý thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học” được xếp ở vị trí cao nhất. Đa số giảng viên đồng ý yêu cầu đối với giảng viên là vừa phải có trình độ chuyên môn tốt, vừa có phương pháp dạy học tốt (3). Sự kết hợp giữa phương pháp giảng dạy thuyết trình truyền thống với các phương pháp giảng dạy hiện đại đã phần nào hạn chế bớt được tình trạng “đọc - chép” trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay. Bên cạnh đó, giảng viên tự đào tạo về năng lực sư phạm để phù hợp với yêu cầu về đổi mới phương pháp giảng dạy, giảng viên đã biết khơi gợi để sinh viên dám nói, dám hỏi, dám tranh luận để bảo vệ chính kiến của mình. Giảng viên sử dụng không gian lớp học một cách hiệu quả: sử dụng bảng, đặt đèn chiếu, màn hình hợp lý để học viên dễ dàng quan sát, tiếp thu sẽ có sự hấp dẫn khi giảng bài… Sự kết hợp này giúp sinh viên bớt nhàm chán trong giờ học, tạo sự hứng thú, say mê với môn học. Sự hứng thú này làm cho sinh viên yêu thích môn học, ngành học của mình hơn, kích thích tư duy sáng tạo của sinh viên.
Sự tìm tòi, học hỏi nhằm đổi mới phương pháp dạy học là một trong những yếu tố thể hiện sự nhiệt tình, tâm huyết của giảng viên trong giảng dạy. Đây là một nét đẹp trong nhân cách người thầy cùng với trình độ kiến thức cao sẽ tạo cho sinh viên sự kính trọng, ngưỡng mộ, tôn vinh người thầy, tự nó đã tạo ra những giá trị thẩm mỹ để phát triển ý thức thẩm mỹ trong sinh viên.
Cùng với việc áp dụng những phương pháp thích hợp trong giảng dạy, kết quả hoạt động giảng dạy của giảng viên còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng truyền đạt tri thức của họ. Nếu giảng viên có hiểu biết sâu sắc về chuyên môn, tri thức uyên bác nhưng giảng bài không rõ ràng, mạch lạc, thiếu logic sẽ dẫn đến sự hạn chế tiếp thu bài của sinh viên. Ngược lại, giảng viên có khả năng trình bày rõ ràng, logic nhưng trình độ chuyên môn kém sẽ dẫn đến việc truyền đạt tri thức nghèo nàn, thiếu chính xác, ảnh hưởng xấu đến chất lượng giảng dạy. Thực tế cho thấy, những giảng viên có chuyên môn vững chắc sẽ dễ dàng trình bày bài giảng vừa đảm bảo nội dung khoa học, vừa dễ hiểu với sinh viên. Ngoài việc nắm vững nội dung môn học, giảng viên còn cần hiểu biết và có khả năng liên hệ với các khoa học khác, nhất là việc ứng dụng những kiến thức của môn học vào các công trình nghiên cứu và trong hoạt động thực tiễn.
Một bài giảng hay trước hết phải thể hiện tính khoa học, tính triết lý, có chiều sâu nhưng lại không xa rời thực tiễn. Điều đó giúp người học có những mong muốn tìm tòi khám phá; việc tiếp thu kiến thức mới sẽ hấp dẫn, lôi cuốn sinh viên bởi thầy cô trình bày mạch lạc, chính xác, sâu sắc, gắn lý thuyết với thực tế cuộc sống.
Bên cạnh đó, môt bài giảng hấp dẫn sinh viên không chỉ ở nội dung mà còn phụ thuộc vào cách dẫn dắt vấn đề, giọng nói, tác phong của giảng viên. Thông qua lời nói, nét mặt, điệu bộ của giảng viên mà sinh viên có thể hiểu đúng hay không đúng những tư tưởng, tri thức và tình cảm của giảng viên. Những cử chỉ thân thiện như mỉm cười, thay đổi tư thế đứng, ngồi, đi lại, quan sát phù hợp với không gian lớp học, tạo không khí vui vẻ trong lớp học, đồng thời, sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ có hiệu quả khi trình bày như giọng nói ấm áp dễ nghe, âm lượng phù hợp, không phát âm quá lớn hoặc quá nhỏ hoặc quá gay gắt, ánh mắt thân thiện sẽ thu hút được tình cảm của học viên. Trong quá trình truyền giảng, giảng viên nên thường xuyên đưa ra một thông điệp ấm áp, tin tưởng vào học viên, thể hiện sự tự tin, quan tâm và kỳ vọng vào kết quả đạt được của học viên. Khả năng dẫn dắt vấn đề khi trình bày bài giảng có tác dụng động viên sức chú ý, tạo thêm hứng thú, khơi gợi trí tuệ để sinh viên tìm tòi, khám phá cái mới. Lớp học là môi trường trung gian, là nơi hợp tác giữa giảng viên và sinh viên. Việc tạo ra bầu không khí tích cực, thoải mái, thân thiện là một trong những vấn đề quan trọng trong hoạt động giảng dạy của giảng viên như Albert Einstien đã từng khẳng định: “Nghệ thuật quan trọng nhất của người thầy là đánh thức niềm vui trong lao động và trong nhận thức”.
Trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học cũng là một trong những nhiệm vụ của người giảng viên. Khi giảng viên nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy họ lôi cuốn sinh viên tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học ngay từ những năm đầu tiên bằng các hình thức như truyền đạt các phương pháp khoa học, cách làm việc trong phòng thí nghiệm, trong các cơ sở thực hành, cách đặt ra vấn đề nghiên cứu mà sinh viên quan tâm, hướng dẫn luận chứng, phân tích vấn đề và đưa ra kết luận, kiến nghị…. Giảng viên nghiên cứu khoa học tạo ra uy tín đối với sinh viên. Sinh viên đánh giá cao nghị lực, ý chí, tinh thần vượt khó của giảng viên, từ đó kích thích tinh thần học hỏi, khơi gợi niềm đam mê khoa học ở sinh viên.
Chính trong hoạt động giảng dạy, sự giao lưu, tiếp xúc giữa giảng viên và sinh viên đã phần nào thể hiện mối quan hệ thầy - trò trong nhà trường. Số liệu điều tra, khảo sát tại 14 trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội của đề tài “ Vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng môi trường văn hóa ở các trường cao đẳng, đại học Hà Nội” do Ban Đại học - Thành ủy Hà Nội chủ trì cho thấy, ý kiến trả lời từ đội ngũ giảng viên, cán bộ, đảng viên nhà trường về quan hệ thầy - trò là “quan hệ tốt” từ 60 – 80% số ý kiến người được hỏi; “quan hệ bình thường” từ 20 - 40%. Mối quan hệ thầy trò tốt đẹp là một trong các tiêu chí tạo nên giá trị thẩm mỹ trong môi trường nhà trường. Cách cư xử, ứng xử, thái độ đẹp của người thầy tạo nên một mẫu hình lý tưởng để sinh viên vươn tới.
Bên cạnh những giá trị văn hoá thẩm mỹ nêu ra như trên, thực tế cho thấy, công tác giảng dạy của đa số giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay còn tồn tại những hạn chế, điều đó tác động không nhỏ tới sự hình thành và phát triển năng lực và phẩm chất trong nhân cách sinh viên.
Thực tế ở nước ta hiện nay nhóm phương pháp thuyết trình được giảng viên thường xuyên sử dụng nhất, trong khi đó, các phương pháp mới như phương pháp đóng vai, dạy học theo tiếp cận môđun, dạy học bằng grap, dạy học theo dự án, dạy học qua mạng, nghiên cứu điển hình, phần lớn số ý kiến cho rằng giảng viên còn rất hiếm khi sử dụng hoặc chưa sử dụng. Đó là kết quả nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Vụ Giáo dục Đại học, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Bộ Giáo dục và Đào tạo trong tìm hiểu thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở đại học. Theo một nghiên cứu của PGS, TS. Nguyễn Công Khanh - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi điều tra 448 sinh viên của 4 khoa Toán, Lý (Đại học Khoa học Tự nhiên) Văn, Sử (Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn) cho thấy: đa số sinh viên được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học; 88,8% sinh viên muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 73,3% sinh viên thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán; 82,4% sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết học; 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; 79,2% sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học (có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc) hơn so với hiện nay (4). Những con số trên cho thấy, phương pháp giảng dạy của giảng viên chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng thụ động, kém hứng thú học tập, hạn chế phát triển năng lực tư duy ở sinh viên.
Với mục tiêu đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp giáo dục đại học đã được chỉ ra tại điều 36, mục 1, điểm b của Luật giáo dục là “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm ứng dụng”, dù đã đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng trên thực tế, hoạt động giảng dạy của giáo viên trong các trường đại học, cao đẳng vẫn còn tình trạng giảng dạy độc thoại theo lối thầy đọc, thầy giải thích, trò ghi chép. Cách thức giảng dạy này đã tạo thói quen thụ động, không phát huy được tính tích cực của sinh viên, làm cho tư duy của học viên bị ức chế, giờ học trở nên mệt mỏi, kém hứng thú, không khơi dậy khả năng tự rèn luyện, không phát triển tính sáng tạo của sinh viên. Tình trạng trên là hậu quả của nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân đa phần giảng viên trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay không được đào tạo chính quy ngành sư phạm mà mới qua lớp nghiệp vụ sư phạm ngắn hạn đã bước lên bục giảng. Nguyên nhân này còn dẫn đến kỹ năng giảng dạy của một bộ phận giảng viên chưa tốt, giao tiếp với sinh viên chưa chuẩn mực, chưa hiểu tâm lý sinh viên. Do đó, khoảng cách giữa giảng viên và sinh viên chưa gần gũi, làm hạn chế môi trường thẩm mỹ đối với sinh viên, do đó hạn chế trong việc phát triển ý thức thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ cho sinh viên.
Hiện nay ở nước ta, vấn đề tìm hiểu nhu cầu xã hội làm mục đích cho đào tạo chưa sâu, nên dẫn tới tình trạng đào tạo theo lối chủ quan, tư biện. Giảng viên không tìm hiểu nhu cầu của học sinh, không biết sinh viên đòi hỏi gì trong bài giảng của mình mà chỉ giảng dạy cho sinh viên những kiến thức mà mình có. Một trong những đặc điểm khác biệt của hệ đào tạo đại học khác với những bậc học khác là đào tạo cho sinh viên cách học, nghĩa là người giảng viên có nhiệm vụ truyền thụ cho sinh viên cách thức chiếm lĩnh tri thức như cách sưu tầm tài liệu, cách đọc tài liệu, cách tổng hợp vấn đề, v.v. Song trên thực tế bậc học đại học ở nước ta hiện nay vẫn bị coi là bậc học “cấp 4”, vì giảng viên chưa thực hiện được nhiệm vụ này. Trong quá trình dạy học, người giảng viên vẫn chú ý đi vào giảng giải những kiến thức cụ thể, mà chưa đi sâu vào cách thức chiếm lĩnh tri thức nghĩa là vẫn dạy sinh viên “học cái gì” chứ không phải là “học như thế nào”. Với cách thức truyền thụ kiến thức cụ thể này, sinh viên sẽ rất bỡ ngỡ khi gặp những tri thức mới. Sinh viên không biết chiếm lĩnh tri thức đó như thế nào. Điều này một mặt gây ra tâm lý không thỏa mãn về kiến thức ở một bộ phận sinh viên, mặt khác, sinh viên sẽ cảm thấy lạc lõng trong thời đại hiện nay. Sinh viên bị thụ động, rơi vào trạng thái mơ hồ, hoang mang, kém tự tin vào chính bản thân mình, hạn chế phát triển tư duy dẫn tới hạn chế khả năng sáng tạo của họ.
Trong những năm gần đây, số lượng sinh viên tăng lên một cách nhanh chóng. Đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng tăng, nhưng tăng chậm không theo kịp với quy mô sinh viên dẫn đến tình trạng quá tải. Tỉ lệ sinh viên trên giảng viên lớn dần từ 6,9 (năm 1990) lên 19 (năm 1995) và 30 (năm 1999), đặc biệt có những nhóm trường tỉ lệ này rất cao: 71 (nhóm trường kinh tế, luật), 51 (nhóm trường khoa học xã hội và nhân văn), thậm chí có thời gian bình quân lên 150 sinh viên/ giảng viên. Hiện nay, trung bình mỗi giảng viên đảm nhiệm việc học tập của 27 sinh viên, so với chuẩn trung bình từ 15-20 sinh viên/ 1 giảng viên của các trường đại học quốc tế, tỷ lệ này là quá cao. Giảng viên dạy nhiều giờ, thậm chí nhiều môn lại dạy thêm ở các trường dân lập, do đó có ít thời gian để năng cao chất lượng bài giảng, nghiệp vụ sư phạm và đặc biệt là hoạt động nghiên cứu khoa học. Một trong những thước đo về chất lượng giảng viên đại học chính là thành tích nghiên cứu khoa học và trình độ sư phạm của họ. Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp người giảng viên tìm tòi, sáng tạo, phát minh những vấn đề mới và sử dụng chúng vào công tác giảng dạy. Có nghiên cứu khoa học giảng viên mới đưa được cái mới vào bài giảng của mình, tránh được hiện tượng giảng viên chỉ nói theo giáo trình. Tuy nhiên, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê: “Hiện có 3% giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học”. Sinh viên là người trực tiếp bị ảnh hưởng bởi những hạn chế trên. Ngoài việc được tiếp nhận lượng tri thức hạn chế, tình trạng trên còn đưa sinh viên đến tâm lý ức chế, nhàm chán trong giờ học, kém tôn trọng giáo viên và thui chột ý chí phấn đấu của sinh viên. Điều này làm hạn chế ý thức và năng lực thẩm mỹ trong sinh viên.
Những hạn chế trên đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa của các nhà quản lý và hoạch định chính sách giáo dục. Vì vậy cần nâng cao nhận thức về văn hoá thẩm mỹ cho giảng viên, đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên; có chính sách thu nhập hợp lý cho giảng viên cũng như đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với việc áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại. Thực hiện được những yêu cầu nêu trên sẽ góp phần giải quyết được những mâu thuẫn tồn tại trong công tác giảng dạy của giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay, một mặt nhằm nâng cao giá trị văn hoá thẩm mỹ trong công tác giảng dạy của giảng viên, mặt khác tạo điều kiện bồi dưỡng và phát triển nhân cách sinh viên./.
Th.S. LÊ THỊ THUỲ DUNG
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường
______________________________
(1) http://gdtd.vn/channel/3006/2009/08/1716483
(2) http://gdtd.vn/channel/2741/201011/giang-vien-CD-trinh-do-tien-si-tang-44,8/nam-1935779
(3) http://gdtd.vn/channel/3161/201103/phuong-phap-thuyet-trinh-van-duoc-trong-dung-1942237
(4) http://dantri.com.vn/c25/s25-252276/hon-50-sinh-vien-khong-hung-thu-hoc-tap.htm