Kinh tế - xã
hội nước ta những tháng đầu năm 2019 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế
giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức
gia tăng. Hoạt động thương mại và đầu tư thế giới giảm, bất đồng giữa
các nước lớn về định hình hệ thống thương mại toàn cầu ngày càng sâu
sắc. Xu hướng tăng lãi suất, biến động khó lường trên thị trường tài
chính - tiền tệ quốc tế và giá dầu diễn biến phức tạp tác động đến tăng
trưởng tín dụng, tâm lý và kỳ vọng thị trường. Xu hướng gia tăng của chủ
nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch cùng những
thay đổi về địa chính trị cũng là thách thức đối với kinh tế thế giới và
gây ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam.
Trong nước, nhờ những thuận lợi từ
kết quả ấn tượng đạt được trong năm 2018, nền kinh tế những tháng đầu
năm tiếp tục chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được
kiểm soát ở mức thấp nhưng cũng đối mặt nhiều khó khăn, thách thức với
tăng trưởng chậm lại của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; giải ngân
vốn đầu tư công đạt thấp; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh trên
vật nuôi diễn biến phức tạp.
MỘT SỐ CHỈ SỐ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ QUÝ I/2019
Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2019 ước tính tăng 6,79% so với cùng kỳ
năm trước, tuy thấp hơn mức tăng trưởng của quý I/2018 nhưng cao hơn
tăng trưởng quý I các năm 2011-2017, khẳng định tính kịp thời và hiệu
quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành quyết
liệt cùng với sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương trong
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ngay từ những tháng đầu
năm 2019.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 4,9% vào mức tăng trưởng chung;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,63%, đóng góp 51,2%; khu vực dịch
vụ tăng 6,5%, đóng góp 43,9%.
Trong
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành nông nghiệp tăng 1,84% so
với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 3,97% của quý I/2018,
đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của
toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,2%, do chiếm tỷ trọng thấp nên
chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 5,1%, đạt mức
tăng trưởng cao nhất của quý I trong 9 năm trở lại đây, đóng góp 0,14
điểm phần trăm.
Trong
khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 8,95% so với
cùng kỳ năm trước, đóng góp 3,14 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá
trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Động lực tăng trưởng chính của nền kinh
tế trong quý I/2019 là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng
12,35%, tuy thấp hơn mức tăng 14,3% của quý I/2018 nhưng cao hơn mức
tăng quý I các năm 2012-2017, đóng góp lớn vào tốc độ tăng tổng giá trị
tăng thêm với 2,72 điểm phần trăm.
Ngành khai khoáng quý I năm nay tăng
trưởng âm (giảm 2,2%), làm giảm 0,15 điểm phần trăm mức tăng tổng giá
trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm
10,3% và khí đốt tự nhiên giảm 2,4%.
Ngành xây dựng 3 tháng đầu năm nay
duy trì mức tăng trưởng khá với 6,68%, đóng góp 0,39 điểm phần trăm.
Sản
xuất công nghiệp quý I/2019 đạt mức tăng trưởng cao, trong đó công
nghiệp chế biến, chế tạo tuy không bứt phá mạnh mẽ như quý I/2018 nhưng
vẫn là điểm sáng, đóng góp chính vào tăng trưởng của khu vực công nghiệp
và tăng trưởng của toàn nền kinh tế; riêng ngành khai khoáng tiếp tục
xu hướng giảm, khẳng định nền kinh tế đã thoát khỏi sự phụ thuộc vào
khai thác khoáng sản và tài nguyên.
Chỉ
số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) quý I/2019, ước tính tăng 9,2%
so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 12,7% của cùng kỳ năm 2018
nhưng vẫn cao hơn mức tăng 7,4% và 4,8% của cùng kỳ năm 2016 và năm
2017. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai
trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng
11,1%, đóng góp 8,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung, tuy nhiên tốc độ
tăng này thấp hơn khá nhiều so với mức tăng 15,7% của cùng kỳ năm 2018;
ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,4%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm;
ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,5%, đóng góp
0,2 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 2,1% (chủ yếu do khai
thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 6,2%), làm giảm 0,3 điểm phần trăm
mức tăng chung.
Trong
khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng
trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 7,82% so với cùng kỳ năm
trước, là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung với 0,95
điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,22%, đóng góp 0,3 điểm
phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,71%, đóng
góp 0,36 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,75%,
đóng góp 0,32 điểm phần trăm.
Về
cơ cấu nền kinh tế quý I năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 10,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,25%; khu
vực dịch vụ chiếm 44,04%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm
10,55% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2018 là: 10,35%; 35,31%;
43,72%; 10,62%).
Trên
góc độ sử dụng GDP quý I, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,09% so với cùng kỳ
năm 2018; tích lũy tài sản tăng 6,2%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
tăng 6,81%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,7%.
Trong
quý I/2019, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt
động tăng cao. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2019 cho thấy đa số các
doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, doanh
nghiệp lạc quan với tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II-2019 sẽ
ổn định và tốt hơn.
Tính
chung quý I năm nay, cả nước có 28.451 doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới với tổng vốn đăng ký là 375,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% về số doanh
nghiệp và tăng 34,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng
ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 13,2 tỷ đồng, tăng
26,9%. Nếu tính cả 722,5 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các
doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào
nền kinh tế trong quý I năm 2019 là 1.098 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó,
còn có 15.050 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 78,1% so với
cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và
doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong quý I/2019 lên hơn 43,5 nghìn
doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập
mới trong quý I/2019 là 317,6 nghìn người, tăng 40,9% so với cùng kỳ năm
trước.
Kết
quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo trong quý I/2019 cho thấy: Có 33,7% số doanh nghiệp
đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I năm nay tốt hơn quý trước;
25,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 40,5% số doanh nghiệp cho
rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.
Dự kiến quý II/2019 có
54,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 10,6% số doanh
nghiệp dự báo khó khăn hơn và 34,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình
sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục đánh giá lạc quan nhất khi có tới
91,3% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2019
tốt hơn và giữ ổn định; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và
ngoài Nhà nước lần lượt là 86,8% và 88,8%.
Tình
hình thực hiện và giải ngân vốn đầu tư trong quý I/2019 chủ yếu tập
trung vào hoàn thành công tác phân bổ dự toán đầu năm nguồn vốn đầu tư
công, đồng thời đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án chuyển tiếp,
công trình trọng điểm. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2019 theo
giá hiện hành đạt 359,2 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm
trước và bằng 32,2% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 106,8 nghìn
tỷ đồng, chiếm 29,7% tổng vốn và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước; khu
vực ngoài Nhà nước đạt 158 nghìn tỷ đồng, chiếm 44% và tăng 13,6%; khu
vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 94,4 nghìn tỷ đồng, chiếm
26,3% và tăng 7,5%.
Đầu
tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/3/2019 thu hút
785 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 3.821,4 triệu USD, tăng
27% về số dự án và tăng 80,1% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018.
Bên cạnh đó, có 279 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều
chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 1.298,4 triệu USD, giảm 27,5%
so với cùng kỳ năm 2018. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn
tăng thêm trong 3 tháng đạt 5.119,8 triệu USD, tăng 30,9% so với cùng kỳ
năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 3 tháng ước tính
đạt 4.120 triệu USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 3 tháng
năm 2019 còn có 1.653 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước
ngoài với tổng giá trị vốn góp là 5,69 tỷ USD, gấp 3 lần cùng kỳ năm
2018, trong đó có 588 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của
doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 4,79 tỷ USD và 1.065 lượt nhà đầu
tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước không làm tăng vốn điều lệ với
giá trị 0,9 tỷ USD.
Xuất
khẩu hàng hóa quý I/2019 tuy vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng so với
cùng kỳ nhưng tăng thấp (4,7%), trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng
9,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,7%. Đáng chú ý, nhiều mặt
hàng nông sản, thủy sản chủ lực có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng
kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa quý I-2019 ước tính thặng dư
536 triệu USD nhưng thấp hơn nhiều so với mức 2,7 tỷ USD của cùng kỳ năm
2018.
Quý
I/2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 58,51 tỷ USD, tăng
4,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt
17,05 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 29,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 41,46 tỷ USD, tăng 2,7%,
chiếm 70,9%.
Kim
ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I-2019 ước tính đạt 57,98 tỷ USD, tăng
8,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt
24,09 tỷ USD, tăng 13,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 33,89 tỷ
USD, tăng 6%.
GIẢI PHÁP TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Trước
tình hình kinh tế quý I/2019, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước quyết liệt thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2019; tập trung tháo gỡ khó khăn cho
sản xuất kinh doanh; bảo đảm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế
cả năm 2019, năm “bứt phá” để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020...
Chính
phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được
giao tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng thực chất, hiệu
quả, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ; triển
khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả những giải pháp tạo động lực thúc
đẩy tăng trưởng năm 2019, tập trung vào tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản
xuất, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; tăng cường tận dụng cơ hội từ Hiệp
định thương mại tự do, nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm
nhập siêu; thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, theo
dõi sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, các dự án lớn để tháo gỡ
kịp thời các vướng mắc; đẩy mạnh phát triển dịch vụ, nhất là những ngành
dịch vụ bán buôn, bán lẻ, logistics, du lịch, công nghệ thông tin, tài
chính, ngân hàng; đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu giải ngân 100% vốn đầu tư
công; tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư, kinh
doanh, nhất là một số văn bản quy phạm pháp luật đang gây vướng mắc, ảnh
hưởng đến sự phát triển.
Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động,
linh hoạt, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và hỗ trợ, thúc
đẩy tăng trưởng; chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các giải pháp
tăng trưởng tín dụng có hiệu quả đi đôi với kiểm soát chất lượng tín
dụng, tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi
tăng khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, góp phần hạn chế tín dụng
đen; đẩy mạnh cơ cấu lại tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu theo Nghị
quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội và Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ; đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu
kém; hoàn thiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.
Bộ
Tài chính thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính, ngân sách nhà nước, cơ
cấu lại ngân sách Nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng thu nội địa, tăng tỷ
trọng chi đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng chi thường xuyên; đẩy mạnh
cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch, lộ trình đề
ra; đánh giá cụ thể các chính sách thuế, xem xét khả năng mở rộng cơ sở
thuế phù hợp với yêu cầu thực tế; đồng thời tăng cường công tác tuyên
truyền các chính sách thuế, tạo đồng thuận; tích cực triển khai hóa đơn
điện tử; quản lý, chống thất thu thuế, nhất là trong khu vực kinh tế phi
chính thức.
Bộ
Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương cập nhật kịch bản tăng trưởng quý 2, 6
tháng, 9 tháng và cả năm 2019 để các bộ, ngành, địa phương có giải pháp
điều hành phù hợp; khẩn trương hoàn thiện Đề án Định hướng hoàn thiện
thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút và sử dụng
đầu tư nước ngoài đến năm 2030...
Các
bộ, cơ quan, địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân các dự
án, công trình trọng điểm, có quy mô lớn, tạo sức lan tỏa để đóng góp
cho tăng trưởng. Các bộ, cơ quan lập danh mục dự án đầu tư công thuộc
lĩnh vực quản lý, phân công lãnh đạo bộ, cơ quan phụ trách đôn đốc triển
khai dự án trọng điểm thuộc lĩnh vực quản lý.
Ủy
ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp khẩn trương hoàn thiện cơ cấu
tổ chức, triển khai tích cực các chức năng, nhiệm vụ được giao, đẩy
mạnh công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, xử lý các doanh nghiệp
yếu kém, thua lỗ; tập trung cơ cấu lại toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước theo đúng chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước./.
Thanh Huyền
(Nguồn: TC Cộng sản)