(TG) - Đa dạng sinh học có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, là cơ sở đảm bảo an ninh lương
thực, duy trì nguồn gen vật nuôi, cây trồng, cung cấp nguyên vật liệu cho
xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu... Bảo tồn đa dạng sinh học
không chỉ là vấn đề của một quốc gia, một địa phương, vùng lãnh thổ hay
một cá nhân mà là vấn đề chung của tất cả các nước.
CHỦ TRƯƠNG VÀ NỖ LỰC
Việt Nam đã sớm tham gia
và trở thành thành viên
của nhiều công ước,
hiệp ước quốc tế về bảo tồn,
phát triển nguồn tài nguyên đa
dạng sinh học, đặc biệt, từ năm
1994 đã chính thức tham gia
Công ước Quốc tế về đa dạng
sinh học. Từ đó đến nay, Đảng
ta luôn thể hiện đầy đủ cam kết
chính trị và những nỗ lực của
mình trong lãnh đạo, chỉ đạo
công tác bảo tồn đa dạng sinh
học. Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính
sách nhằm tăng cường quản lý
có hiệu quả nguồn tài nguyên
quý giá này. Cùng với đó, các cơ
quan quản lý nhà nước, các tổ
chức trong nước và quốc tế, các
đoàn thể nhân dân đã chung tay
hành động thiết thực để bảo tồn
đa dạng sinh học quốc gia.
Mặc dù đã rất nỗ lực từ chủ
trương, chính sách đến hành
động nhưng không thể phủ
nhận được thực tế là hệ sinh
thái, đa dạng sinh học của Việt
Nam liên tục bị suy giảm và suy
thoái. Dưới áp lực của sự gia
tăng dân số, quá trình đô thị
hóa nhanh, phát triển thiếu quy
hoạch, thay đổi phương thức sử
dụng đất, xây dựng nhiều kết
cấu hạ tầng cơ sở... đã làm giảm
đáng kể diện tích sinh cảnh tự
nhiên, tăng sự chia cắt các hệ
sinh thái, làm suy giảm môi
trường sống của nhiều loài động
vật, thực vật hoang dã. Các loại
tài nguyên thiên nhiên mà đặc
biệt là tài nguyên sinh vật đang
bị khai thác quá mức, đặc biệt là
thủy, hải sản, lâm sản gỗ và lâm
sản phi gỗ. Sự du nhập của các
loài ngoại lai xâm hại, ô nhiễm
môi trường và những tác động
của biến đổi khí hậu đang tác
động trực tiếp lên đa dạng sinh
học của Việt Nam. Nhiều loài
sinh vật, đặc biệt là các loài quý,
hiếm, đang trở nên tuyệt chủng
ngoài tự nhiên hoặc đứng trước
nguy cơ tuyệt chủng. Tình trạng
khai thác, săn bắn, buôn bán và
tiêu thụ trái phép động, thực vật
hoang dã ngày càng diễn biến
phức tạp gây ra những mối đe
dọa lớn tới đa dạng sinh học
cũng như ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hình ảnh Việt Nam
trên trường quốc tế.
Cột mốc quan trọng
cho sự nghiệp bảo tồn đa
dạng sinh học Việt Nam là
Luật Đa dạng sinh học được
Quốc hội thông qua ngày
13-11-2008 và có hiệu lực
từ ngày 1-7-2009. Luật Đa
dạng sinh học được đánh giá
là rất tiến bộ, có tầm nhìn,
hệ thống và tiếp cận đầy đủ
các cam kết và chuẩn mực
quốc tế về bảo tồn đa dạng
sinh học. Đây là khung luật
đầu tiên của Việt Nam quy
định về bảo tồn và phát triển
bền vững đa dạng sinh học;
quyền và nghĩa vụ của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân
trong bảo tồn và phát triển
bền vững đa dạng sinh học.
Luật Đa dạng sinh học có
riêng Chương 4 (từ điều 37
đến điều 49) quy định về
“Bảo vệ động, thực vật hoang
dã”. Luật Hình sự sửa đổi qua
các năm 2009 và gần đây là
năm 2015 đã bổ sung, sửa
đổi và tăng nặng hơn các
quy định xử phạt đối với các
tội săn bắt, giết, vận chuyển,
buôn bán trái phép động vật
hoang dã quý hiếm bị cấm
theo quy định của Chính phủ
hoặc vận chuyển, buôn bán
trái phép sản phẩm của loại
động vật đó. |
Trước thực trạng đó, Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013
của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về “Chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng cường
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường” đã giao nhiệm vụ cho
các cơ quan quản lý Nhà nước
thực hiện các nội dung: 1) Bảo vệ,
phục hồi, tái sinh rừng tự nhiên,
đẩy mạnh trồng rừng, nhất là
rừng ngập mặn, rừng phòng hộ
ven biển, rừng đầu nguồn. Ngăn
chặn có hiệu quả nạn phá rừng,
cháy rừng. Sớm dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên; 2) Tăng cường
quản lý, mở rộng diện tích các
khu bảo tồn thiên nhiên hiện
có tại những nơi có đủ điều kiện
và đẩy nhanh việc thành lập
các khu bảo tồn thiên nhiên
mới. Ưu tiên nguồn lực cho bảo
vệ cảnh quan, sinh thái, di sản
thiên nhiên; 3) Bảo vệ nghiêm
ngặt các loài động vật hoang dã,
các giống cây trồng, cây dược
liệu, vật nuôi có giá trị, loài quý
hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Ngăn chặn sự xâm nhập, phát
triển của sinh vật ngoại lai xâm
hại; 4) Tăng cường quản lý rủi ro
từ sinh vật biến đổi gen.
Thực hiện Nghị quyết số
24-NQ/TW, các cơ quan Nhà
nước đã triển khai rất nhiều
các giải pháp. Ngày 26-12-2013,
Ban Tuyên giáo Trung ương
đã ban hành Hướng dẫn số
98-HD/BTGTW “Công tác tuyên
truyền việc thực hiện không buôn
bán, tiêu thụ bất hợp pháp động
vật, thực vật hoang dã”. Đến nay,
đã có 10 Nghị định của Chính
phủ, 12 Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ và 23 Thông tư
của Bộ trưởng được ban hành,
thể chế hóa các chiến lược, quy
hoạch, cơ chế về bảo tồn và phát
triển bền vững đa dạng sinh học
Việt Nam, trong đó, có bảo tồn
và phát triển các loài nguy cấp,
quý hiếm.
ĐẨY MẠNH BẢO TỒN ĐA
DẠNG SINH HỌC
Để có thể bảo tồn một cách
có hiệu quả hệ sinh thái và đa
dạng sinh học, cần tập trung
thực hiện tốt một số nhiệm vụ,
giải pháp sau:
Một là, tăng cường trách
nhiệm của người đứng đầu đối
với công tác bảo vệ môi trường
nói chung và công tác bảo tồn đa
dạng sinh học nói riêng. Đối với
người đứng đầu, trong công tác
điều hành phải luôn tính đến yếu
tố bảo vệ môi trường, bảo tồn đa
dạng sinh học, thực hiện nghiêm
việc đánh giá môi trường chiến
lược và đánh giá tác động môi
trường của các dự án phát triển
kinh tế - xã hội. Phải cân nhắc và chú trọng ngay từ đầu việc
đánh giá những ảnh hưởng của
các chính sách phát triển, các
dự án kinh tế tới đa dạng sinh
học… Vậy nên, việc kiểm điểm
đánh giá kết quả việc thực hiện
các chương trình, kế hoạch hành
động về bảo vệ môi trường, bảo
tồn đa dạng sinh học phải được
xem là một trong những tiêu chí
để xếp loại và đánh giá cán bộ
hằng năm, là cơ sở để xem xét
đánh giá bổ nhiệm cán bộ.
Hai là, đổi mới và nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức, thay đổi
hành vi của từng cán bộ đảng
viên và người dân về bảo tồn đa
dạng sinh học.
Thực tế là, hiện nay nhận
thức của nhiều cấp ủy đảng,
chính quyền cũng như người
dân về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của công tác bảo tồn các
loài động, thực vật hoang dã
chưa đầy đủ và đúng mức. Việc
tuyên truyền các chủ trương,
chính sách pháp luật về bảo tồn
đa dạng sinh học, bảo vệ các loài
động, thực vật hoang dã chưa
thực sự được coi trọng, chưa
được tiến hành thường xuyên,
liên tục. Trong nhân dân, còn
khá phổ biến tư tưởng muốn sử
dụng các sản phẩm từ động, thực
vật hoang dã làm thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, đồ trang sức,
thời trang, mỹ nghệ, trưng bày,
trang trí, quà biếu, tặng; coi đó
như là phương thuốc quý để
tăng cường sức khỏe, chữa bệnh
và thể hiện sự “giàu có”, “đẳng
cấp” của bản thân và gia đình.
Do đó, cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa ngành Tuyên
giáo với các cơ quan quản lý
nhà nước cùng cấp trong định
hướng, tổ chức tuyên truyền
một cách chính thống và khoa
học với nhiều hình thức đa
dạng và phong phú. Có thể đưa
nội dung tuyên truyền về bảo
tồn thiên nhiên, đa dạng sinh
học, bảo tồn các loài hoang dã,
nguy cấp quý hiếm vào các nội
dung sinh hoạt của chi bộ, đặc
biệt phát huy vai trò của đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên
từ Trung ương đến cơ sở. Đồng
thời, xây dựng cơ chế cung cấp
thông tin giữa ngành Tuyên
giáo với các cơ quan quản lý
nhà nước cùng cấp về bảo tồn
đa dạng sinh học, là cơ sở định
hướng các cơ quan thông tấn,
báo chí nâng cao hiệu quả của
công tác tuyên truyền về bảo
tồn đa dạng sinh học một cách
hiệu quả và thiết thực.
Các bộ, ngành trong chức
năng quản lý của mình cần kịp
thời cung cấp các thông tin về
các vụ việc có xung đột về môi
trường nói chung, bảo tồn đa
dạng sinh học nói riêng để cùng
phối hợp kịp thời chỉ đạo và
định hướng tuyên truyền.
Ba là, đề xuất Trung ương
ban hành một chỉ thị hoặc nghị
quyết riêng về bảo tồn đa dạng
sinh học nhằm tạo nên sự thông
suốt về nhận thức, tư tưởng và
hành động của toàn Đảng, các
cấp, các ngành và sự đồng thuận
trong nhân dân.
Từ những định
hướng lớn về bảo tồn đa dạng
sinh học, các cấp ủy đảng sẽ tập
trung chỉ đạo, xây dựng chương
trình hành động, kế hoạch bảo
tồn phù hợp với điều kiện thực
tiễn của địa phương, đơn vị, góp
phần thiết thực thực hiện có
hiệu quả Công ước Quốc tế về
đa dạng sinh học và các cam kết
về bảo tồn đa dạng sinh học mà
Việt Nam đã tham gia./.
Lê Thị Ngân
Vụ Khoa học, Công nghệ - Ban Tuyên giáo Trung ương
-------------------------------------
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 7/2018