Sáng 22/1, trong phần tuyên án bị cáo Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch
Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam - PVC)
và các đồng phạm, Hội đồng xét xử đã cho rằng, bị cáo Đinh La Thăng
(nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN) đã
chỉ định PVC làm tổng thầu không thông qua Hội đồng Thành viên PVN.
Chỉ đạo ký kết Hợp đồng EPC số 33 trái quy định
Ngày 15/10/2010, Hội đồng Thành viên PVN đã ra Nghị quyết số
9396/NQ-DKVN phê duyệt phương án thành lập liên danh tổng thầu EPC Dự án
Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, trong đó có nội dung: “PVC là thành
viên đứng đầu liên danh, nhà thầu nước ngoài tham gia được lựa chọn theo
hình thức đầu thầu quốc tế…”.
Như vậy, Nghị quyết Hội đồng Thành viên PVN đã nêu rõ, muốn thực hiện dự
án, PVC phải thành lập liên danh tổng thầu với các nhà thầu nước ngoài
có đủ năng lực và kinh nghiệm. Tuy nhiên, sau đó, bị cáo Đinh La Thăng
vẫn chỉ định PVC là nhà thầu duy nhất làm tổng thầu EPC Dự án Nhà máy
Nhiệt điện Thái Bình 2, vi phạm Nghị quyết số 9396/NQ-DKVN ngày
15/10/2010 của Hội đồng Thành viên PVN, Điều lệ PVN.
Lời khai của bị cáo Đinh La Thăng tại tòa cũng thể hiện bị cáo thừa nhận
do sức ép về tiến độ nên có sai phạm về quy trình trong việc chỉ định
PVC làm tổng thầu không thông qua Hội đồng Thành viên.
Mặt khác, trong khi thực hiện dự án đầu tư hiệu chỉnh chưa được phê
duyệt, chưa có thiết kế FEED, tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi công, hồ
sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu và một loạt các thủ tục pháp lý khác có liên
quan nhưng do nôn nóng, cũng như do sức ép công việc nên bị cáo Đinh La
Thăng đã chỉ đạo ký kết Hợp đồng EPC số 33 trái quy định.
Bị cáo Nguyễn Quốc Khánh (nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN) khai tại thời
điểm ký kết, Hợp đồng 33 Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 chưa có
căn cứ pháp lý, chưa đủ điều kiện để ký kết Hợp đồng EPC, nhưng bị cáo
vẫn chỉ đạo là phải nhanh chóng ký Hợp đồng EPC số 33 là do tại thời
điểm này, bị cáo Đinh La Thăng và Phùng Đình Thực (nguyên Tổng Giám đốc
PVN) chỉ đạo yêu cầu rút ngắn tiến độ, ký Hợp đồng EPC Dự án Nhà máy
Nhiệt điện Thái Bình 2 trước ngày 28/2/2011.
Điều này phù hợp với lời khai của người làm chứng là ông Vũ Huy Quang
(Tổng Giám đốc PVPower) trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa
về việc ký kết hợp đồng EPC số 33 là do sức ép của PVN. Cụ thể, PVPower
đã báo cáo bị cáo Đinh La Thăng về việc để có thể ký kết hợp đồng phải
mất khoảng 5-6 tháng và chỉ có thể ký kết hợp đồng vào trung tuần tháng
6/2011. Tuy nhiên, bị cáo Đinh La Thăng vẫn yêu cầu phải ký hợp đồng
trước 28/2/2011 để khởi công dự án vào ngày 1/3/2011.
Do vậy, theo Hội đồng xét xử, có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Đinh La
Thăng đã được báo cáo và biết rõ phải đến tháng 6/2011 mới có đủ hồ sơ
để ký kết Hợp đồng EPC Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, nhưng vẫn
chỉ đạo cấp dưới ký kết Hợp đồng trái quy định về hợp đồng tại Điều 4,
Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 và khoản 2, Điều 4, Nghị định số
48/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về Hợp đồng trong hoạt động xây
dựng.
Trong phần thẩm vấn tại phiên tòa, bị cáo Đinh La Thăng thừa nhận đã chỉ
đạo tạm ứng vốn 10% cho PVC trong khi tài liệu thể hiện Hợp đồng EPC số
33 PVC thiếu nhiều nội dung quan trọng không có cơ sở để tạm ứng như
không có Điều 14 (Giá trị hợp đồng và Thanh toán) và Điều kiện Hợp đồng,
không có Phụ lục 2 (Điều kiện và Quy trình thanh toán) quy định về
khoản tạm ứng… vi phạm khoản 2, khoản 6, Điều 17 - Nghị định số
48/2010/NĐ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động
xây dựng.
Căn cứ vào các tài liệu và lời khai của các bị cáo khác, Hội đồng xét xử
đã khẳng định bị cáo Đinh La Thăng biết rõ điều kiện, năng lực của PVC
đang rất khó khăn nhưng bị cáo vẫn yêu cầu và chỉ định thầu cho PVC thực
hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2. Như vậy, bị cáo là người
đứng đầu PVN đã có hành vi chỉ định thầu cho PVC làm tổng thầu EPC Dự án
Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 khi biết rõ PVC không có đủ năng lực về
tài chính cũng như kinh nghiệm để làm tổng thầu dự án này, nên ý kiến
của bị cáo Đinh La Thăng về việc không biết PVC không có năng lực là
không có căn cứ.
Đối chiếu với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, Hội đồng xét xử cho
rằng hành vi của bị cáo Đinh La Thăng có đầy đủ dấu hiệu của tội “Cố ý
làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng", chứ không phải là tội danh khác như bị cáo và luật sư đưa ra.
Việc truy tố Trịnh Xuân Thanh là hoàn toàn có căn cứ pháp luật
Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Xuân Thanh thừa nhận biết năng lực PVC chưa
đạt để làm tổng thầu, hồ sơ chưa đầy đủ nhưng vẫn chỉ đạo PVC ký kết Hợp
đồng EPC số 33; thừa nhận đôn đốc Ban Giám đốc PVC sớm xin cấp tạm ứng
thực hiện hợp đồng; thừa nhận Hội đồng Quản trị đã ra chủ trương và
quyết định việc góp vốn vào các công ty con.
Tuy nhiên, bị cáo Thanh cho rằng, việc sử dụng tiền tạm ứng sai mục đích
để góp vốn là do Ban Giám đốc và Kế toán trưởng thực hiện. Luật sư bào
chữa cho bị cáo Trịnh Xuân Thanh cho rằng, vai trò của bị cáo trong việc
chỉ đạo ký kết Hợp đồng EPC số 33 rất mờ nhạt và bị cáo không có vai
trò quyết định trong việc sử dụng tiền tạm ứng thực hiện Hợp đồng EPC số
33 sai mục đích. Hành vi của bị cáo Trịnh Xuân Thanh chỉ là thiếu trách
nhiệm.
Về nội dung này, Hội đồng xét xử nhận thấy, đối với việc chỉ đạo ký kết
Hợp đồng EPC số 33, bị cáo Trịnh Xuân Thanh thừa nhận chỉ đạo ký kết hợp
đồng số 33 trong khi hồ sơ chuẩn bị không đầy đủ theo quy định của pháp
luật. Điều này phù hợp với lời khai tại phiên tòa của bị cáo Vũ Đức
Thuận (nguyên Tổng Giám đốc PVC) về việc đã báo cáo Trịnh Xuân Thanh về
các thiếu sót của Hợp đồng EPC số 33.
Sau khi ký kết Hợp đồng EPC số 33, Ban Giám đốc PVC có tờ trình số
755/TTr-XLDK ngày 8/3/2011 về việc đề nghị Hội đồng Quản trị phê duyệt
nội dung thực hiện hợp đồng thực hiện gói thầu EPC xây dựng nhà máy
chính thuộc dự án đầu tư xây dựng công trình Nhà máy Nhiệt điện Thái
Bình 2. Trịnh Xuân Thanh đã ký phiếu lấy ý kiến của các thành viên Hội
đồng Quản trị số 149/HĐQT-XLDK ngày 10/3/2011 về việc phê duyệt nội dung
thực hiện hợp đồng thực hiện gói thầu EPC xây dựng nhà máy chính thuộc
dự án đầu tư xây dựng công trình Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2.
Theo quy định tại Điều 108 - Luật Doanh nghiệp cũng như Điều lệ PVC, đối
với Hợp đồng EPC số 33, quyền quyết định ký kết là của Hội đồng Quản
trị. Như vậy, vai trò của Trịnh Xuân Thanh là quyết định trong việc chỉ
đạo, điều hành PVC ký kết Hợp đồng EPC số 33. Ý kiến của các luật sư cho
rằng, bị cáo có vai trò mờ nhạt và chỉ thiếu trách nhiệm là không có cơ
sở.
Đối với việc xin cấp tạm ứng và sử dụng tiền tạm ứng, Trịnh Xuân Thanh
thừa nhận đã đôn đốc việc xin tạm ứng tiền. Điều này phù hợp với lời
khai của bị cáo Vũ Đức Thuận tại phiên tòa về việc đẩy nhanh tiến độ xin
PVN tạm ứng và sử dụng tiền tạm ứng là theo chỉ đạo của Thanh. Lúc đó,
tài chính công ty rất khó khăn, chỉ trông chờ nguồn tiền dự án.
Điều này cũng phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyễn Mạnh Tiến (nguyên
Phó Tổng Giám đốc PVC) là tại PVC, việc quản lý và điều hành là rất gần
nhau. Trịnh Xuân Thanh là người quản lý nhưng luôn tham gia việc giao
ban tuần, tháng của Ban Giám đốc. Các chỉ đạo của Thanh tại những cuộc
họp này luôn được Tổng Giám đốc tiếp thu và đưa vào Kết luận của Ban
điều hành. Cũng như lời khai của bị cáo Phạm Tiến Đạt (nguyên kế toán
trưởng PVC) là tại thời điểm tháng 4/2011, tình hình tài chính PVC rất
khó khăn. Khi nhận chức kế toán trưởng, bị cáo đã có báo cáo nhanh về
tình hình này đối với Hội đồng Quản trị, trong đó có Trịnh Xuân Thanh và
Ban Giám đốc nên bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã biết được tình hình tài
chính của PVC.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tiến Đạt khẳng định, tất cả các việc góp vốn
đều thực hiện theo Nghị quyết của Hội đồng Quản trị, khi sắp xếp nguồn
vốn để góp vốn đều báo cáo Hội đồng Quản trị. Bị cáo Nguyễn Mạnh Tiến
khẳng định, nếu không có sự chỉ đạo của Hội đồng Quản trị và Tổng Giám
đốc thì không thể sử dụng tiền tạm ứng sai mục đích vì phải có sự phê
duyệt của Hội đồng Quản trị và Tổng Giám đốc…
Như vậy, có đủ căn cứ để khẳng định Trịnh Xuân Thanh biết được PVC không
đủ năng lực để làm tổng thầu thực hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái
Bình 2, chưa đủ điều kiện để ký kết nhưng bị cáo vẫn chỉ đạo ký kết Hợp
đồng EPC số 33; chỉ đạo việc xin tạm ứng thực hiện hợp đồng và sử dụng
tiền tạm ứng thực hiện hợp đồng sai mục đích, vi phạm khoản 6, Điều 17,
Nghị định 48/2010/NĐ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ quy định về hợp đồng
trong hoạt động xây dựng.
Hội đồng xét xử kết luận hành vi của bị cáo Trịnh Xuân Thanh có đủ dấu
hiệu phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại khoản 3, điều 165, Bộ luật
Hình sự năm 1999.
Bản án sơ thẩm nhận định, PVC tại thời điểm được chỉ định thầu trái pháp
luật, ký kết Hợp đồng EPC số 33 và Hợp đồng EPC số 4194 khi chưa đủ
điều kiện, tạm ứng vốn trái phép là một doanh nghiệp đang thâm hụt tài
chính, không đủ kinh nghiệm thực hiện các dự án lớn. Điều này đã được
các bị cáo Vũ Đức Thuận, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Mạnh Tiến, Phạm Tiến
Đạt khẳng định trước tòa, cũng đã được Ban Quản lý dự án và PVPower báo
cáo.
Cũng cùng thời điểm đó, PVC được PVN chỉ định thầu xây dựng một số dự án
khác như Ethanol Dung Quất, Ethanol Phú Thọ, Xơ sợi Đình Vũ… cho đến
nay đã được Chính phủ xác định thất thoát thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng, mỗi
dự án như vậy có nguy cơ trở thành một vụ án, lãnh đạo PVC đang phải
đối mặt với nguy cơ điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự khác.
Quyết định chỉ định thầu và chuyển tiền ngay lập tức một cách quyết
liệt, vội vã cho doanh nghiệp không đủ năng lực và kinh nghiệm chuyên
môn là trái pháp luật, trái chỉ đạo của Chính phủ. Quyết định như vậy đã
gây ra sự nghi ngờ to lớn trong nhân dân về sự trong sáng của chủ
trương và tính thanh liêm của cán bộ thực hiện./.
(TTXVN)