Tổng tiến công Mậu Thân 1968 là đòn quân sự và chính trị đánh vào ý chí
chiến tranh của Mỹ, đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các
thành thị… buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự và xuống
thang chiến tranh.
Quá trình leo thang của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam diễn ra từ sau năm
1960 và tăng tốc từ đầu năm 1965, đến cuối năm 1967 khi đạt đến nấc
thang cao nhất với việc quân Mỹ tăng nhanh từ vài chục vạn đến hơn nửa
triệu quân.
Mỹ thực hiện chiến thuật phản công tìm diệt quân giải phóng miền Nam,
mở nhiều chiến dịch đánh phá bằng không quân và hải quân ra miền Bắc
nhằm phá hoại tất cả các mục tiêu quân sự chính trị, kinh tế, xã hội, kể
cả hệ thống đê điều, thủy lợi, dân cư; ra sức đánh phá toàn bộ hệ thống
đường giao thông và vận tải chiến lược trên đường Trường Sơn nhằm ngăn
chặn sự chi viện sức người sức của từ miền Bắc vào miền Nam…
So sánh tương quan lực lượng (nhất là vũ khí trang bị, sức cơ động và
tính hiện đại) giữa Mỹ và quân giải phóng khiến Mỹ tự tin vào sức mạnh
quân sự của mình. Cuối năm 1967, Tổng thống Johnson vẫn tin rằng Mỹ sẽ
kết thúc chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam bằng một thắng lợi quân
sự.
Chính trong bối cảnh đó, Mỹ bất ngờ phải đối phó với cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của ta đã có ý tưởng
từ lâu, đến cuối năm 1967 đầu 1968 việc chuẩn bị trực tiếp cho kế hoạch
tổng công kích, tổng khởi nghĩa ngày càng ráo riết.
Cuộc tổng tấn công và nổi dậy đã nổ ra ngay sau thời khắc Giao thừa
Tết Mậu Thân 1968 (đêm 30 rạng ngày 31/1/1968) tại Sài Gòn và trên toàn
miền Nam đã giáng cho đối phương đòn bất ngờ, được thể hiện trên các
phương diện: Bất ngờ về thời điểm và quy mô, bất ngờ về phương hướng và
phương thức tác chiến, bất ngờ về mục tiêu… Đặc biệt là những trận đột
kích vào các vị trí quan trọng của bộ máy chiến tranh tại Sài Gòn, gây
bàng hoàng cho chính giới ở Mỹ và tác động mạnh mẽ đến Quốc hội Mỹ, gây
mất niềm tin sâu sắc trong dư luận nhân dân Mỹ.
Bị tác động từ cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, Quốc hội
Mỹ phản đối yêu cầu của tướng William Westmoreland, Tư lệnh liên quân Mỹ
ở Nam Việt Nam về việc đòi tăng thêm 206.000 quân Mỹ cùng như không tin
vào đường lối chiến tranh và chiến thuật tác chiến của quân đội Mỹ ở
chiến trường Việt Nam.
Tình hình đó dẫn đến việc Tổng thống Mỹ buộc phải bỏ kế hoạch tăng quân và không thể tiếp tục leo thang chiến tranh.
Đầu tháng 3/1968, Tổng thống Lyndon Johnson triệu hồi tướng William
Westmoreland từ Việt Nam về Mỹ và đưa tướng Abrams sang thay.
Tổng thống Mỹ thấy cần thiết phải có những tuyên bố về tình hình và
ông ta đã triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia xem xét lại toàn bộ cuộc
chiến tranh Việt Nam.
Trong những ngày nhóm họp (25 và 26/3/1968), các cố vấn cấp cao Washington bày tỏ quan điểm về chiến lược của Mỹ ở Việt Nam.
Đêm Chủ nhật 31/3/1968, truyền hình Liên bang Mỹ phát bài phát biểu
dài 45 phút của Tổng thống Johnson nói về những quyết định hệ trọng bậc
nhất của quốc gia, trong đó có những nội dung lớn như: Mỹ đơn phương
chấm dứt ném bom Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn
sàng cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ cộng hòa; Mỹ không thể
tiếp tục đưa các lực lượng quân Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ, mà cần
tăng cường cho quân đội Nam Việt Nam khả năng phòng thủ.
Quyết định của Tổng thống Johnson là biểu hiện cao nhất, rõ ràng nhất
của chuỗi dài xuống thang chiến tranh của Mỹ trước tác động của đòn tấn
công Tết Mậu Thân 1968.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã kết luận: “Tết Mậu
Thân thắng rất lớn, không phải chỉ ở chiến thuật mà nhất là đã đánh bại
được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến
tranh”.
Như vậy có thể thấy thực tế cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta
từ mùa xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra thời kỳ mới, thời kỳ vừa đánh vừa
đàm, nhằm mục tiêu giành thắng lợi quyết định, tiến tới giành thắng lợi
hoàn toàn./.
Theo chinhphu.vn