Thứ Tư, 25/9/2024
Kinh tế
Thứ Hai, 13/10/2008 23:1'(GMT+7)

Các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và tỷ giá nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KT-XH năm 2008

Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất ở Mỹ ngày càng có những diễn biến xấu và đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới rơi vào suy thoái. Sự kiện một số tập đoàn tài chính, ngân hàng hàng đầu của Mỹ bị phá sản, sáp nhập đã có những tác động rất tiêu cực đến thị trường tài chính - tiền tệ toàn cầu và khiến các nhà đầu tư trên thế giới hoảng loạn. Hoạt động đầu tư, thương mại trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro khó lường.

Những biến động của kinh tế thế giới đã có tác động đến kinh tế trong nước. Mặc dù vẫn đạt mức tăng trưởng cao nhưng nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn như: lạm phát và nhập siêu tăng mạnh, khiến thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao; biến động của dòng vốn đầu tư ngắn hạn đã khiến cho cung cầu ngoại tệ diễn biến phức tạp; thị trường chứng khoán, bất động sản sụt giảm ảnh hưởng tới sự ổn định kinh tế vĩ mô, tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, đời sống tâm lý xã hội và môi trường đầu tư nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam tiếp tục phát triển, nâng cao quy mô tài sản, công nghệ sản phẩm dịch vụ mới và đặc biệt cải thiện từng bước nâng cao trình độ quản trị và kiểm soát rủi ro phục vụ đắc lực tăng trưởng kinh tế; tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện những khó khăn nhất định.

Trước tình hình trên, bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, trong đó trọng tâm là 8 nhóm giải pháp mà Chính phủ đã đề ra trong chỉ đạo điều hành năm 2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Các giải pháp cụ thể được triển khai là:

Thứ nhất, chủ động rút bớt tiền từ lưu thông về thông qua việc điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% áp dụng từ tháng 2/2008 (riêng các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc); phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc vào ngày 17/3/2008 (các TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn không thuộc đối tượng mua tín phiếu NHNN); đồng thời, kiểm soát tốc độ tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.

Thứ hai, đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng. Theo đó, NHNN đã điều chỉnh tăng các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản tăng từ 8,25% lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5 lên 15%/năm, lãi suất chiết khấu từ 4,5% lên 13%/năm) và điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 1,2%/năm lên 3,6%/năm từ tháng 9 và 5%/năm áp dụng từ tháng 10/2008 nhằm giúp các TCTD giảm chi phí vốn, từ đó giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế.

Thứ ba, điều hành tỷ giá theo nguyên tắc linh hoạt trên cơ sở cung-cầu ngoại tệ và có kiểm soát, thông qua mở rộng biên độ mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng thêm +0,25%, áp dụng từ ngày 10/3/2008 (tăng từ +0,75% lên +1%), từ ngày 27/6/2008 tiếp tục mở rộng biên độ này từ +1% lên +2%; can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Trong 2 tháng đầu năm 2008, vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục vào Việt Nam, làm dư cung ngoại tệ, NHNN đã can thiệp mua ngoại tệ để giảm sức ép tăng giá VND. Kể từ cuối tháng 3, tình hình nhập siêu gia tăng, nhu cầu ngoại tệ quá lớn, tỷ giá VND/USD biến động đảo chiều, mức độ lên giá của VND giảm dần và chuyển thành giảm giá so với USD, NHNN đã linh hoạt can thiệp trên thị trường ngoại hối, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu. Những ngày đầu tháng 6, sau khi thống nhất với Bộ Công thương về tình hình nhập siêu và theo kết luận của Thủ tướng Chính phủ nhập siêu năm 2008 không được quá 20 tỷ USD, NHNN đã bán ngoại tệ can thiệp thị trường, điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật nhằm ổn định thị trường ngoại hối.

Thứ tư, tăng cường hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng thông qua nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác.

Thứ năm, chỉ đạo các TCTD điều chỉnh kế hoạch kinh doanh và cơ cấu tín dụng cho phù hợp với định hướng, chủ trương chính sách phát triển kinh tế của đất nước và của Ngành. Theo đó, TCTD giảm tín dụng đối với các lĩnh vực phi sản xuất, có nguy cơ rủi ro cao (cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản, tiêu dùng) đã giảm từ 16,5% xuống 13,5% trong tổng dư nợ để tập trung vốn cho vay sản xuất, xuất khẩu, các dự án trọng điểm quốc gia, nông nghiệp và nông thôn, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu; tiếp tục mở rộng cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Thứ sáu, tăng cường giám sát thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh để đánh giá diễn biến thị trường và có biện pháp can thiệp phù hợp. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với hệ thống TCTD, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhỏ, để chấn chỉnh việc quản trị, điều hành, việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh, quản lý chặt chẽ mạng lưới, quy mô, thành lập mới các NHTM.

Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng theo hướng vừa bảo đảm tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam, nhất là các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn; phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần....

Thứ tám, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của NHNN để tạo sự đồng thuận của người dân và doanh nghiệp; tăng cường việc trao đổi thông tin vĩ mô, chính sách tiền tệ với các tổ chức tài chính quốc tế và cộng đồng quốc tế để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, tránh hiểu sai và đưa thông tin không chính xác về kinh tế Việt Nam.

Thứ chín, nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp và người dân, NHNN đã thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận và xử lý các ý kiến phản ánh của doanh nghiệp và người dân về hoạt động tiền tệ, ngân hàng.

Những giải pháp nêu trên của NHNN được thực hiện đồng bộ với các giải pháp do các bộ, ngành khác triển khai theo chỉ đạo của Chính phủ, đã có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2008 tăng 16,3% so với cùng kỳ; xuất khẩu tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao (43,3 tỷ USD), tăng 39,1% so với cùng kỳ năm 2007; nhập siêu đã giảm dần: quý I tỷ lệ nhập siêu là 62,4% trên tổng kim ngạch xuất khẩu; quý II giảm xuống còn 34%; tháng 7 và tháng 8 chỉ còn 14%. Chỉ số CPI giảm dần: tháng 6 tăng 2,14%; tháng 7 tăng 1,13% và tháng 8, mặc dù điều chỉnh tăng giá xăng dầu nhưng CPI chỉ tăng 1,56%. Đặc biệt tháng 9 chỉ tăng 0,18%. Triển vọng kinh tế của Việt Nam vẫn được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, biểu hiện là số vốn FDI đăng ký đạt 47,2 tỷ USD và giải ngân đạt 7 tỷ USD, mức kỷ lục từ trước đến nay.

Cùng với những dấu hiệu khả quan của nền kinh tế, hoạt động tiền tệ, ngân hàng cũng đạt được những kết quả tích cực. Lãi suất có xu hướng ổn định phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. Tỷ giá của các NHTM giao dịch trong biên độ được phép; thị trường ngoại hối đã ổn định trở lại, các giao dịch ngoại hối hợp pháp được tiến hành thuận lợi, các NHTM đã tự cân đối được nguồn vốn ngoại tệ. Các TCTD hoạt động an toàn, không có NHTM mất khả năng thanh toán, hầu hết các NHTM đều có hệ số an toàn vốn lớn hơn mức tối thiểu 8% ; tỷ lệ cấp tín dụng của các NHTM ở mức 80 - 85% so với vốn huy động từ nền kinh tế, khả năng chi trả ngắn hạn được đảm bảo; cơ cấu tín dụng đang được điều chỉnh theo hướng mở rộng cho vay đối với các nhu cầu vốn và dự án có hiệu quả, lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp và nông thôn, hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; hạn chế cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản, tiêu dùng.

Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến rất phức tạp và khó lường. Nền kinh tế nước ta vẫn bộc lộ những tồn tại, yếu kém. Tốc độ lạm phát tuy có giảm nhưng tính đến tháng 9/2008 vẫn tăng 21,87% so với đầu năm; nhập siêu mặc dù giảm nhưng vẫn còn rất lớn; cơ cấu kinh tế còn chưa hợp lý, hiệu quả vốn đầu tư còn thấp, vốn tự có của các doanh nghiệp còn nhỏ khiến nhu cầu tín dụng tăng cao trong khi khả năng đáp ứng vốn của hệ thống ngân hàng còn hạn chế, ảnh hưởng tới việc duy trì mục tiêu tăng trưởng kinh tế và an toàn hệ thống ngân hàng; năng lực quản trị kinh doanh, khả năng tài chính, tính liên kết hệ thống của các NHTM để hỗ trợ nhau còn yếu.

Vì vậy, nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong những tháng còn lại của năm 2008 vẫn còn rất nặng nề. Nghị quyết số 20/2008/NQ-CP ngày 29/8/2008 của Chính phủ đã xác định trong những tháng cuối năm 2008, các cấp, các ngành tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ các nội dung và giải pháp điều hành kinh tế - xã hội đã nêu tại Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 9/1/2008, Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008, trong đó nhiệm vụ hàng đầu vẫn là kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Bám sát Nghị quyết số 20/2008/NQ-CP và các văn bản chỉ đạo khác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong những tháng còn lại của năm 2008, Ngân hàng Nhà nước tập trung chỉ đạo, điều hành hoạt động ngân hàng thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:

Một là, điều hành lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông phù hợp với nhu cầu thanh khoản và phương tiện thanh toán của nền kinh tế; kiểm soát lượng tiền bơm ra và hút về thông qua các kênh truyền dẫn tiền tệ (lãi suất, tỷ giá, tái cấp vốn, tín dụng, quy mô vốn của TCTD, biến động giá chứng khoán và bất động sản, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt) để chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và du n? tín dụng.

Hai là, thực hiện chính sách lãi suất và tỷ giá đảm bảo kết hợp hài hoà giữa ưu tiên kiềm chế lạm phát với ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.

Ba là, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn cho các NHTM có quy mô nhỏ nhằm đảm bảo an toàn thanh toán cho các NHTM, ổn định tâm lý thị trường.

Bốn là, ban hành các cơ chế kiểm soát hoạt động của các TCTD để tiếp tục thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng nâng cao chất lượng và kiểm soát quy mô tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất để tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn...

Năm là, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, chấn chỉnh hoạt động của các TCTD; thiết lập kỷ cương và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của TCTD phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế để tăng cường năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, đảm bảo an toàn thanh toán, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Sáu là, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan và cơ quan báo chí làm tốt công tác tuyên truyền về điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và tỷ giá.


Mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức ở phía trước, song với những kết quả đạt được của 9 tháng đầu năm 2008, với sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành và sự đồng lòng của toàn thể nhân dân, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng Việt Nam sẽ sớm vượt qua những khó khăn hiện tại, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 và những năm tiếp theo./.

Nguyễn Văn Giàu,
Uỷ viên Trung ương Đảng
Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất