Sáng 1/11, Quốc hội làm việc tại hội trường, tiếp tục thảo luận về kết
quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2013, kế hoạch năm 2014 và 5 năm
(2011-2015).
Các vấn đề về an sinh xã hội, việc điều hành các gói tín dụng, nợ xấu và
mua bán nợ, hệ lụy của việc quy hoạch thủy điện tràn lan... tiếp tục là
mối quan tâm của nhiều đại biểu.
Trong buổi thảo luận cuối cùng về phát triển kinh tế-xã hội này, Quốc
hội đã dành nhiều thời gian để các “tư lệnh” ngành giải trình thêm những
vấn đề mà các đại biểu Quốc hội còn băn khoăn.
Dành quyền chủ động cho địa phương trong giảm nghèo
Đánh giá cao các chính sách giảm nghèo của Chính phủ, đưa tỷ lệ hộ nghèo
giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 9,6% vào năm 2012, trong kết quả chung
đó có kết quả giảm nghèo ở đồng bào dân tộc miền núi, ở nhóm dân tộc
thiểu số.
Tuy nhiên, nhiều đại biểu cho rằng kết quả giảm nghèo chưa bền vững,
nguy cơ tái nghèo còn cao, nhất là với nhóm đồng bào dân tộc thiểu số,
miền núi và Tây Nguyên.
Đại biểu Lò Văn Muôn (Điện Biên), Y Mửi (Kon Tum) cho rằng tỷ lệ đói
nghèo lớn, tái nghèo lớn đã, đang và sẽ làm cho quá trình giảm nghèo
nhóm dân cư dân tộc thiểu số ngày càng dai dẳng, khó khăn. Đây là thách
thức lớn đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta và với các địa
phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Để các dân tộc thiểu số phát triển cùng cả nước, các thế lực thù địch,
các phần tử xấu không thể lợi dụng tình hình đói nghèo và sự chênh lệch
mức sống, thu nhập để mua chuộc lôi kéo đồng bào tham gia các hoạt động
sai trái vi phạm pháp luật như xảy ra ở một số nơi vừa qua, các ý kiến
cho rằng việc đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách thu
nhập, mức sống giữa các vùng miền, giữa các nhóm dân cư là đòi hỏi bức
thiết hiện nay.
Đại biểu Lò Văn Muôn đề nghị Chính phủ quan tâm rà soát tổng thể các
chính sách xóa đói giảm nghèo đã ban hành, đánh giá xem các chính sách
đó đã đủ để giải tỏa, khắc phục nguyên nhân, thúc đẩy giảm nghèo, đặc
biệt đối với nhóm dân tộc thiểu số chưa.
Trên cơ sở tổng thể các chính sách đó, tính toán chi phí cần thiết hoàn
thành các mục tiêu giảm nghèo theo kế hoạch hàng năm, trung hạn, từ đó
Chính phủ cấp cho các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số một
khoản tiền tổng thể để thực hiện chính sách chứ không giao theo từng
chính sách một, địa phương sẽ chủ động quyết định lựa chọn nhóm chính
sách và thời gian thực hiện theo yêu cầu thực tế. Đại biểu đề nghị cần
kiên trì và đẩy mạnh hơn nữa phát triển giáo dục vùng dân tộc miền núi,
vì đây là một giải pháp giảm nghèo bền vững.
Chung quan điểm này, đại biểu Y Mửi cho rằng để thực hiện có hiệu quả
các chính sách, chương trình giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số,
cần tập trung nguồn lực và đầu mối trong quá trình triển khai, tạo điều
kiện thuận lợi cho địa phương quản lý, thực hiện. Chính phủ cần chỉ đạo
các bộ, ngành sớm thực hiện việc đo đạc các mốc rừng, qua đó rà soát
diện tích những nông, lâm trường làm ăn không hiệu quả để giao lại cho
người dân quản lý, đó cũng là giải pháp quan trọng góp phần giảm nghèo
bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Cần xây dựng niềm tin đối với tăng trưởng kinh tế
Trước những băn khoăn của đại biểu về số liệu thống kê và cách tính GDP
có phần “tô hồng,” Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh khẳng
định đó là những con số hoàn toàn có căn cứ, cơ bản chính xác và có thể
chứng minh được.
Phân tích tình hình tăng trưởng GDP qua các quý và tình hình kinh tế-xã
hội những tháng qua, Bộ trưởng cho biết quý 1, GDP tăng 4,76%; quý II,
tăng 5%; quý 2 tăng 5,54%, quý 4 dự báo tăng 5,6%-5,7%. Như vậy, cả năm
tăng trưởng GDP đạt mức 5,3%-5,4%, so với mức tăng của năm 2012 là 5,25%
thì không có vấn đề gì đặc biệt.
Kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến, ngành công nghiệp chế biến
thủy sản 9 tháng năm 2013 đã tăng thêm 6,8% so với năm trước, các ngành
công nghiệp, dịch vụ, thương mại đều có mức tăng, đây là những con số đo
đếm được. Xuất nhập khẩu năm 2012 khu vực FDI tăng nhưng khu vực sản
xuất trong nước giảm, năm nay song song với tăng khu vực nước ngoài,
xuất khẩu trong nước đã tăng 4,4%. Những con số đó chứng minh được rằng
sản xuất đang phục hồi, trong các lĩnh vực đều có chuyển biến tốt, mặc
dù chưa nhiều, chưa căn bản, chưa thật sự bền vững.
Bộ trưởng cho rằng trong điều kiện hiện nay niềm tin là quan trọng, cần
xây dựng niềm tin để vươn tới, chúng ta không bôi hồng nhưng cũng đừng
tô đen.
Đây là thời điểm quan trọng của đất nước, đánh giá kết quả giữa nhiệm kỳ
của Đại hội Đảng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất muốn lắng nghe để hoàn
chỉnh báo cáo trình Quốc hội, Chính phủ, mong muốn các đại biểu Quốc hội
phân tích kỹ tình hình 2013, những đề xuất cho các năm 2014, 2015 và
đặc biệt chuẩn bị cho nhiệm kỳ 2016- 2020, bàn bạc các giải pháp trong
hai năm tới, chuẩn bị những gì cho trung hạn, dài hạn cho đất nước, nếu
không đổi mới, chắc chắn đất nước sẽ khó khăn - Bộ trưởng Bùi Quang Vinh
nói.
Tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 11,2%
Giải đáp những lo ngại của đại biểu về tăng trưởng tín dụng, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho biết, 10 tháng năm 2012 tăng
trưởng tín dụng cả hệ thống ngân hàng ở mức gần 3%, nhưng cả năm 2012
mức tăng trưởng đã là 8,9%. 10 tháng năm nay, tăng trưởng tín dụng đã
đạt 6,8%, nếu tính cả dư nợ tín dụng đã được xử lý, thực tế tăng trưởng
tín dụng mới của nền kinh tế 10 tháng đã tăng lên mức 7,89%.
Hàng tuần, Ngân hàng Nhà nước đều giao ban với các ngân hàng thương mại
và giám đốc ngân hàng nhà nước ở các tỉnh để nắm bắt kế hoạch tăng
trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng, trên cơ sở các kết quả đạt
được năm qua và đặc biệt là năm 2013, cũng như tăng trưởng 2 tháng còn
lại, hoàn toàn có cơ sở khẳng định mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung
của năm nay là 11,2%. Hiện nay, đã có một số vốn tương ứng dự trữ để sẵn
sàng cho tăng trưởng tín dụng nên sẽ không ảnh hưởng đến kế hoạch cung
tiền của Ngân hàng nhà nước.
Về tăng trưởng tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn, Thống đốc cho
biết năm 2013, tăng trưởng tín dụng toàn ngành còn ở mức khiêm tốn nhưng
tăng trưởng tín dụng cho nông nghiệp đã tăng thêm 15% và theo kế hoạch
có thể đạt từ 15%-18%. Điều đặc biệt là nợ xấu trong nông nghiệp, nông
thôn ở mức thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung hệ thống.
Báo cáo của các tổ chức tín dụng cho thấy, hiện nay, nợ xấu của toàn hệ
thống là 4,64% nhưng nợ xấu trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ là 3%. Hiện
Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với chính quyền địa phương các cấp tiến
hành sơ kết lại Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ
nông nghiệp, nông thôn nhằm đánh giá tồn tại của Nghị định này cũng như
hướng sửa đổi trong thời gian tới để phù hợp chủ trương của Đảng, Nhà
nước trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt phù hợp với thực
tế hiện nay trong hoạt động nông nghiệp cũng như phù hợp với đề án tái
cơ cấu ngành nông nghiệp.
Nợ xấu của ngân hàng và nợ xấu của Công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng Việt Nam (VAMC) - một trong những vấn đề được đại biểu hết
sức quan tâm trong 1 ngày rưỡi thảo luận về tình hình phát triển kinh
tế - xã hội, đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giải đáp kỹ càng. Theo
Thống đốc Nguyễn Văn Bình, đến nay tổng số nợ các tổ chức tín dụng đã
cơ cấu lại cho các khoản vay lên tới trên 300 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn
10% tổng số nợ.
Trong số này, có tới 60% các khoản nợ nếu không được cơ cấu lại đã thành
nợ xấu. Năm 2012, hệ thống ngân hàng đã trích lập, xử lý nợ xấu và
trích lập dự phòng rủi ro khoảng 70 nghìn tỷ đồng. Trong 9 tháng 2013 đã
trích lập và xử lý nợ xấu thêm 32 nghìn tỷ đồng, theo kế hoạch năm sẽ
trích lập xử lý nợ xấu thêm 70 nghìn tỷ đồng. Từ khi bắt tay chính thức
vào mua nợ xấu, VAMC đã mua được 10 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Cộng với các
con số đã thực hiện, có thể thấy nếu không triển khai ngay các giải pháp
này, nợ xấu trong các tổ chức tín dụng đã tăng thêm trên 10%.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho rằng, để xử lý được nợ xấu phải có nhiều
giải pháp đồng bộ hơn nữa - như các đại biểu đã nêu, nếu giải quyết được
nợ đọng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản sẽ giải quyết được rất nhiều
khoản nợ xấu. Vấn đề lớn nhất là phải có các giải pháp tổng thể để tăng
tổng cầu của nền kinh tế để nền kinh tế có triển vọng tốt hơn, góp phần
giải quyết một cách căn bản nợ xấu. Thời gian tới, ngoài các giải pháp
đã triển khai, Ngân hàng Nhà nước tích cực phối hợp với các bộ, ngành,
có giải pháp tháo gỡ, liên kết “4 nhà” để đảm bảo việc mua bán hàng hóa
được thông thoáng hơn, giảm tồn kho.
Báo cáo thêm về VAMC, Thống đốc cho biết trên cơ sở Nghị định
53/2013/NĐ-CP của Chính phủ và các hướng dẫn, việc mua bán nợ của Công
ty không sử dụng tiền của ngân sách. Bán nợ, các doanh nghiệp có điều
kiện thuận lợi hơn, các khoản nợ được VAMC mua lại đều không tính thành
nợ xấu, do vậy, doanh nghiệp có điều kiện để tiếp cận với các nguồn vốn
mới của các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ sau khi được VAMC mua lại sẽ
tiến hành cơ cấu lại lãi suất, đưa lãi suất cao trước đây về mặt bằng
lãi suất hiện nay, cơ cấu về tính chất nguồn vốn, thời hạn cho vay đảm
bảo khả năng quy định. Về phía các tổ chức tín dụng cũng có nhiều thuận
lợi, được bảo đảm các quyền lợi hợp pháp.
Tạo động lực phát triển khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Trong buổi thảo luận, nhiều đại biểu tiếp tục thể hiện sự quan tâm đối
với dự án "Luồng cho tàu có trọng tải lớn vào sông Hậu" và mong muốn
Chính phủ sớm triển khai. Làm rõ hơn về dự án này, Bộ trưởng Giao thông
Vận tải Đinh La Thăng cho biết Dự án được đưa vào danh mục các dự án
trọng điểm ngành giao thông vận tải và được Bộ Giao thông Vận tải phê
duyệt năm 2007, đưa vào triển khai từ năm 2008, sử dụng vốn trái phiếu
Chính phủ.
Dự án là tuyến thủy giao thông huyết mạch phục vụ ổn định và phát triển
kinh tế- xã hội toàn khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Để tiết kiệm chi
phí đầu tư, Bộ đã thống nhất với Tập đoàn Điện lực Việt Nam kết hợp dự
án này với dự án trung tâm điện lực duyên hải. Hiện phía Bắc đã được
triển khai, nếu không triển khai phía Nam và tuyến luồng vào cảng, cảng
của trung tâm điện lực duyên hải không hoạt động được. Do vậy, việc tiếp
tục triển khai dự án Luồng sông Hậu là cấp bách và cần thiết.
Về cơ sở khoa học và tính ổn định của dự án, Bộ trưởng Đinh La Thăng cho
biết Dự án có tính khả thi cao, đáp ứng được các yêu cầu về môi trường
sinh thái, biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn. Vấn đề ổn định cửa ra, cửa
vào của dự án được các nhà tư vấn đặt ra và tiến hành nghiên cứu, đánh
giá, phân tích kỹ./.
Thanh Vân-Khiếu Tư (TTXVN)
Theo kết quả nghiên cứu tư vấn, vị trí lựa chọn cửa ra là nơi có tính ổn
định, cùng với mô hình đê chắn sóng sau khi hoàn thành sẽ đảm bảo yêu
cầu ổn định tổng thể khu vực. Dự án cũng đã được đánh giá đầy đủ về tác
động môi trường, tác động xâm nhập mặn, ảnh hưởng biến đổi khí hậu theo
quy định hiện hành, đảm bảo sự phát triển bền vững của dự án.
Mong muốn nhận được sự chia sẻ, ủng hộ của các đại biểu Quốc hội về dự
án quan trọng này, Bộ trưởng Đinh La Thăng khẳng định: Dự án "Luồng cho
tàu có trọng tải lớn vào sông Hậu" hoàn thành và đi vào sử dụng có ý
nghĩa quan trọng trong việc ổn định, phát triển kinh tế- xã hội chung
của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; tạo động lực thu hút đầu tư vào các
khu công nghiệp, khu kinh tế; giảm chi phí vận chuyển hàng hóa bằng
đường bộ từ Đồng bằng sông Cửu Long lên các cảng khu vực Thành phố Hồ
Chí Minh; tăng sức cạnh tranh hàng hóa; nâng cao hiệu quả khai thác kết
cấu hạ tầng đường biển trong khu vực./.