Thứ Tư, 9/10/2024
Kinh tế
Chủ Nhật, 24/10/2010 21:33'(GMT+7)

Cần thì không có, có lại chẳng màng

Giá mía đã lên tới mức hơn một triệu đồng một tấn. Cuộc tranh giành được dự báo sẽ quyết liệt hơn khi vào chính vụ ép đường. Và trong cuộc chiến này, doanh nghiệp muốn giành được nguyên liệu thì phải trả giá rất cao, doanh nghiệp nào không mạnh tay giành giật thì về “đóng cửa” dây chuyền hoặc chạy cầm chừng.

Những tưởng với tình trạng này, người nông dân trồng mía được hưởng lợi, song thực tế lại không đơn giản như vậy.

Cách đây chưa lâu, hàng loạt hộ dân trồng mía ở chính những nơi này đã phải chặt bỏ hoặc đốt ruộng mía vì giá quá thấp - thấp đến mức không đủ để thuê nhân công thu hoạch. Thậm chí, thu hoạch rồi cũng không bán được vì các nhà máy đường đã quá tải nên không mua. Tình trạng lúc thừa, lúc thiếu như thế diễn ra khá phổ biến đối với nhiều loại nông sản của nước ta.

Cách đây chưa lâu, các thương lái thật khó khăn khi đi mua lúa trong dân để kịp cung ứng cho các doanh nghiệp xuất khẩu giao hàng đúng hợp đồng. Nhưng rồi cũng chỉ sau đó ít lâu, lúa lại thừa mứa, tồn đọng ăm ắp trong mỗi nhà, không thể bán được. Tình cảnh những người nuôi cá tra ở ĐBSCL cũng không khá hơn. Có thời điểm, doanh nghiệp tranh nhau nâng giá để mua được cá cung ứng cho nhà máy chế biến, để rồi ngay sau đó, cá lại thừa mứa đầy ao vì chẳng có doanh nghiệp nào đoái hoài. Người nông dân nếu có lo xuôi, lo ngược để bán được chút ít thì cũng là với giá rẻ mạt, thậm chí dưới cả giá thành nuôi cá.

Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng “cần thì không có, mà có thì chẳng ai màng” này là do sự thiếu thống nhất trong quy hoạch sản xuất. Ví như cây mía: khi vụ này ế thừa, lập tức hàng loạt người trồng mía đốn bỏ chuyển sang trồng loại cây khác có vẻ như đang được giá, chính vì vậy diện tích và sản lượng mía giảm mạnh ngay vụ mía sau. Hệ quả là người mua lại tranh mua, nâng giá thu mua mía, để rồi giá đường lại không ngừng tăng, làm mất ổn định thị trường và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người tiêu dùng. Và rồi khi thiếu mía, giá tăng thì lại ồ ạt trở về trồng lại mía.

Một nguyên nhân quan trọng khác là sự phân chia lợi ích của các bên trong dây chuyền sản xuất nông sản lâu nay quá bất hợp lý. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL của Trường Đại học Cần Thơ về chuỗi giá trị cá tra ở ĐBSCL, trong tổng lợi nhuận thu được từ con cá nổi tiếng của ĐBSCL, người nuôi cá thu được 19,4%, thương lái thu được 2,1%, và 78,5% còn lại thuộc về công ty chế biến và kinh doanh xuất khẩu. Vì thế, yêu cầu đặt ra là phải tính toán hợp lý để cân đối, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên liên quan trong chuỗi sản xuất, kinh doanh. Thực tế, lâu nay mối quan hệ này ít xử lý để đạt được mục tiêu. Người nông dân thường thiếu chủ động và luôn phải nhận về phần thiệt thòi hơn. Họ sản xuất rồi bán nông sản cho thương lái hay doanh nghiệp với giá cả và tiến độ phụ thuộc vào người mua. Ngược lại, trong nhiều trường hợp khi giá tăng, hàng hiếm thì chính người nông dân lại găm hàng, tăng giá, làm khó, khiến doanh nghiệp lao đao vì thiếu nguyên liệu cho chế biến, bị bạn hàng phạt vì giao hàng không đúng tiến độ và còn lỡ mất các hợp đồng xuất khẩu mới. Cách ứng xử như vậy lâu nay thường xảy ra với lúa, cá, tôm, mía, cà phê và nhiều loại hàng hóa khác.

Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp tiêu thụ nông sản của nông dân thông qua ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa 4 nhà (nhà nông - sản xuất, nhà doanh nghiệp - tiêu thụ, nhà khoa học - giải pháp giống và công nghệ, nhà nước - quản lý) được nhắc đến nhiều chứ ít được áp dụng đầy đủ vào thực tế. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khu vực các tỉnh phía Nam có 15 nhà máy đường, nhưng chỉ có 5 nhà máy có hợp đồng bao tiêu mía dài hạn với nông dân. Các nhà máy còn lại thì ban đầu thực hiện bao tiêu khoảng 75% sản lượng mía, nay chỉ còn khoảng 20%, chính vì vậy, tình trạng mua tranh nguyên liệu vẫn diễn ra.

Chính phủ đã có những chính sách và giải pháp để hỗ trợ nông dân, nhưng nhiều lúc, nhiều nơi các chính sách, giải pháp này lại không được thực hiện một cách nghiêm túc.

Giáo sư Võ Tòng Xuân phân tích: Sự hỗ trợ của Chính phủ mà cụ thể là các gói hỗ trợ trong giai đoạn hiện nay sẽ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giảm bớt rủi ro trong đầu tư nông nghiệp. Đó là tạo thuận lợi cho tích tụ đất đai, đẩy mạnh chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp cũng như chế biến sau thu hoạch... Từ đó, doanh nghiệp có thể đẩy mạnh đầu tư cho nông dân sản xuất những mặt hàng nông sản có chất lượng tốt, khối lượng lớn để cung cấp cho doanh nghiệp. Từ nguồn nguyên liệu này, doanh nghiệp có thể cung cấp những sản phẩm chất lượng cao ra thị trường tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Làm được điều này, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân mới thực sự bền vững, và doanh nghiệp mới là chỗ dựa cho nông nghiệp, nông thôn.

Và đương nhiên, khi đó sẽ không còn tình trạng doanh nghiệp cần mua nông sản thì nông dân không có hoặc không bán, còn khi nông dân muốn bán thì doanh nghiệp lại chẳng màng./.

Theo TCCS điện tử

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất