Rất nhiều
vấn đề được làm sáng tỏ, đào sâu, cả ở tầm khái quát và ở các sự kiện,
biến cố, chi tiết cụ thể từ hai phía. Song đến nay, có một câu hỏi mang
tính lịch sử sâu sắc được đặt ra và tìm lời giải đáp trong nhiều công
trình, đó là: Tại sao, nguyên nhân nào Việt Nam là một dân tộc nghèo,
đất không rộng, người không đông lại làm nên chiến thắng vĩ đại mang tầm
vóc thế giới? Tại sao nước Pháp giàu có, "binh hùng", vũ khí mạnh...
lại thất bại thảm hại ở Điện Biên Phủ đã được chuẩn bị công phu, mà họ
nghĩ sẽ là "cối xay thịt" quân Việt Minh?
Đã có nhiều lời giải
xác đáng, khoa học, song không phải trọn vẹn. Chiến dịch Điện Biên Phủ
là một trận đánh thuộc lĩnh vực quân sự, vì vậy, trước hết phải tìm
nguyên nhân chiến thắng từ góc độ quân sự. Đó là khoa học quân sự, là
nghệ thuật quân sự Việt Nam. Vậy nội hàm của học thuyết, nghệ
thuật quân sự Việt Nam là gì? Tại một cuộc hội thảo quan trọng về vấn đề
này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "phải khẳng định có một
học thuyết quân sự Việt Nam và tôi nghĩ rằng, theo học thuyết ấy không hề có chiến lược quân sự thuần túy, chiến lược ta bao giờ cũng là chiến lược tổng hợp, cả chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, một chiến lược toàn diện tổng hợp"(1). Từ đó, "văn hóa" đã trở thành một nội dung, một thành tố hữu cơ
trong học thuyết quân sự Việt Nam. Và trong một lần trao đổi với Giáo
sư Phan Huy Lê, Đại tướng đã xác định: "Nghệ thuật quân sự Việt Nam là
lĩnh vực thuộc phạm trù văn hóa".
Và điều đặc biệt thú vị nữa là,
sau thất bại ở Điện Biên Phủ, chính tướng bại trận Henri Navarre - Tổng
Chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương - đã phải thừa nhận rằng: "Sức mạnh to
lớn của Việt Minh nằm trong sức mạnh huyền thoại của dòng giống người
Việt, lòng yêu nước và nhất là ý thức xã hội mà họ đã xây dựng được...
Chính phủ Việt Minh đưa cuộc chiến vào tất cả các lĩnh vực-chính trị, tư
tưởng, kinh tế, xã hội và quân sự-tạo ra một động lực hết sức mạnh mẽ"(2) Tuy rất cay đắng vì thất bại, song tướng Navarre đã tìm ra
được chân lý, nguyên nhân sâu xa làm nên thất bại của mình vì không
hiểu được "động lực hết sức mạnh mẽ" của văn hóa quân sự Việt Nam, của
văn hóa yêu nước, giữ nước của dân tộc chúng ta.
Lý giải vì sao
nhân dân ta đã đánh thắng hai đế quốc to nói chung, và Chiến thắng Điện
Biên Phủ nói riêng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ: "Sẽ không tìm được
câu trả lời cho câu hỏi này nếu không nhìn sâu vào chiều dày lịch sử xa xưa, vào nền văn hóa dân tộc, vào truyền thống và di sản quân sự của tổ tiên..."(3).
Đặc
điểm bao trùm và sâu sắc nhất của văn hóa giữ nước - yêu nước của dân tộc
ta được hình thành và phát triển hàng nghìn năm nay, như Đại tướng Võ
Nguyên Giáp khẳng định là: "Bí quyết quan trọng bậc nhất là: phải thực hiện cả nước chung sức đánh giặc phải
tổ chức toàn dân kháng chiến. Quân phải đánh giặc đồng thời dân cũng
phải đánh giặc"(4). Thử sơ lược nhìn lại một vài sự kiện
lịch sử để hiểu rõ đặc trưng văn hóa giữ nước này từ xa xưa cho tới đỉnh
cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Có lẽ, truyền thuyết "Thánh
Gióng" là biểu hiện văn hóa đầu tiên của văn hóa giữ nước của dân tộc
ta. Gióng đánh quân xâm lược một mình? Không phải. Ai nuôi Gióng từ một
cậu bé bỗng lớn lên thành Phù Đổng? Cơm gạo của dân làng. Ai rèn đúc vũ
khí (ngựa sắt, gươm sắt) cho Gióng. Dân làng. Thanh gươm bị gãy, vũ khí
thay thế của Gióng là các cụm tre làng. Gióng đã thắng, đuổi quân xâm
lược khỏi bờ cõi đất nước, song, đó chính là sức mạnh nhân dân trong Gióng
đã làm nên chiến thắng. Đó là sức mạnh tổng hợp, tổng lực của văn hóa
giữ nước của dân tộc ta. Tôi nhớ, sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Alain
Ruscio - sử gia người Pháp đã nhận xét: "Võ Nguyên Giáp đâu phải chỉ có
một mình! Ông có nhân dân Việt Nam cùng kề vai, sát cánh..."(5). Thật
thú vị khi có sự trùng hợp của hai hình ảnh nêu trên.
Văn hóa giữ
nước huy động sức mạnh của cả dân tộc khi bị kẻ thù xâm lược là bí
quyết của mọi chiến thắng. Tướng bại trận tại Điện Biên Phủ-De Castries
đã phải thốt lên: Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể
đánh bại được một dân tộc.
Văn hóa giữ nước, bảo vệ Tổ quốc như
vậy, tất yếu tạo ra nghệ thuật quân sự đặc biệt, riêng có của Việt Nam,
đó là chiến tranh nhân dân, mà đặc trưng của nó là sức mạnh bắt nguồn
trong lực lượng hùng hậu của nhân dân được giác ngộ và được tổ chức.
Hoàn toàn tin vào sức mạnh chiến tranh nhân dân nên khi Thủ tướng Liên
Xô (trước đây) hỏi Việt Nam sẽ lấy gì để đánh Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã tự tin trả lời: Nếu theo cách đánh của Liên Xô, "chúng tôi không
trụ nổi 2 giờ đồng hồ", nhưng Việt Nam có cách đánh riêng của mình,
cách đánh của chiến tranh nhân dân.
Thử đối
chiếu hai trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, đánh đuổi
quân xâm lược ra khỏi đất nước ta: Trận Ngọc Hồi - Đống Đa của thế kỷ 18
và trận Điện Biên Phủ giữa thế kỷ 20 sẽ cho ta thấy sức mạnh của văn hóa
giữ nước và sự kế thừa, phát triển của chiến tranh nhân dân. Chỉ trong
vòng hơn một tuần, người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã tập
hợp, tổ chức lực lượng quân đội từ trong nhân dân, nông dân hùng hậu từ
miền trung ra đến phía bắc, hành quân thần tốc đánh một trận "sạch không
kình ngạc" diệt 29 vạn quân Thanh, đất nước sạch bóng quân thù, kết
thúc chiến tranh. Để chuẩn bị đánh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân
và dân cả nước, từ bắc tới nam đã phối hợp tiêu diệt sinh lực địch, cô
lập Điện Biên Phủ. Không chỉ có bộ đội chiến đấu ở Điện Biên Phủ mà còn
hàng triệu thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến hành quân đem đạn
dược, vũ khí, mở đường, tiếp tế hậu cần... cho chiến dịch. Cả nước ra
trận vì trận quyết chiến chiến lược này, đúng như sau này, nhà thơ Chính
Hữu và nhạc sĩ Vũ Trọng Hối đã viết thành thơ và nhạc: "Có những ngày
vui sao, cả nước lên đường, xao xuyến bờ tre, từng hồi trống giục" bởi
vì cả nước ra trận "đi theo ánh lửa từ trái tim mình". (Khi trận Điện
Biên Phủ sắp diễn ra, tôi còn bé, nhưng vẫn nhớ như in: Gia đình tôi,
lúc đó, có chín anh chị em thì ba anh đã tự nguyện đi thanh niên xung
phong, ba chị đi dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch, trong đó có chị
chưa đến 15 tuổi. Ở nhà chỉ còn có bố mẹ già và ba đứa em nhỏ, thiếu ăn.
Đồng cảm với những người ra trận, bà con làng xóm đã tự nguyện ùn ùn
gánh ngô đến ủng hộ gia đình. Tôi nhớ, ngô chất thành đống trong nhà).
Văn hóa giữ nước đâu còn là một khái niệm trừu tượng mà chính là những
cái cụ thể, hằng ngày nhất và đặc biệt được thể hiện trong phẩm giá
những con người bình thường nhất, trước hết là những người lính tình
nguyện.
Ngày xưa, trong kế sách giữ nước của nhà Trần có chính
sách "ngụ binh ư nông". Người nông dân sẵn sàng bỏ cày, bỏ cuốc, trở
thành nghĩa sĩ, nghĩa binh, nghĩa quân khi có giặc xâm lược đất
nước, khi có lời hiệu triệu cứu nước. "Ngụ binh ư nông" là một nét văn
hóa giữ nước vô cùng độc đáo của dân tộc ta đã tồn tại từ hàng trăm năm.
Ngày xưa, chắc chắn rằng, những người lính dũng cảm của Anh hùng dân
tộc Quang Trung đều là từ nông dân. Ở trận Điện Biên Phủ cách đây 70
năm, có lẽ, phần lớn "chiến sĩ Điện Biên" cũng từ đồng quê mà trưởng
thành, trở thành Bộ đội Cụ Hồ, thành anh hùng.
Bốn từ "Quyết
chiến quyết thắng" trên lá cờ ở chiến dịch Điện Biên Phủ giúp tôi nhớ
tới hai từ "Sát Thát" được viết trên tay những người lính thời Trần
quyết diệt quân xâm lược và dòng chữ "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"
của cảm tử quân Trung đoàn Thủ đô chiến đấu bảo vệ Hà Nội hơn 60 ngày
đêm năm 1946-1947. Đó không hề là một khẩu hiệu hô hào suông. Đó là ý
chí kiên cường, quả cảm của người lính và đó chính là hành động tự
nguyện của các thế hệ người lính Việt Nam quyết tâm sắt đá diệt giặc để
giữ nước, bảo vệ và giải phóng Tổ quốc "dẫu cho trăm thân này phơi ngoài
nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng". (Hịch tướng
sĩ - Trần Quốc Tuấn). Và đó chính là những giá trị văn hóa bền vững và
phát triển trong lịch sử dân tộc ta từ ngàn xưa đến hiện tại. Một dòng
chảy văn hóa giữ nước không bao giờ, không thể đứt đoạn. Chiến thắng
Điện Biên Phủ đã minh chứng hùng hồn cho sự thật lịch sử đó.
56
ngày đêm cực kỳ gian khổ và hy sinh trên chiến trường Điện Biên Phủ, nếu
không có sự đoàn kết, gắn bó, thương yêu nhau như tình cảm ruột thịt,
chắc rằng người lính không thể trụ vững. Ngược lại, nơi đây đã trở thành
tấm gương sáng ngời của tình đồng đội, đồng chí, cán bộ với chiến sĩ.
Khi được lên Điện Biên tham gia tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm Ngày chiến
thắng (1984), tôi ngỡ ngàng và xúc động khi chứng kiến những chiến sĩ
Điện Biên ôm chặt nhau, khóc không thành tiếng, đứng lặng đi với những
đôi mắt đỏ hoe chứa đầy nước mắt trước Nghĩa trang Liệt sĩ Đồi A1 (lúc
đó, còn đơn sơ lắm). Một vẻ đẹp kỳ lạ trong đau thương của người lính. Nghĩa tình đồng đội, đồng chí
là một giá trị văn hóa tuyệt vời của Bộ đội Cụ Hồ, mà đỉnh cao của nó
là trước những thử thách vô cùng khốc liệt, nghiệt ngã ở chiến trường
Điện Biên Phủ. Song giá trị văn hóa mới đó có nguồn gốc sâu xa trong
lịch sử dân tộc, trong văn hóa giữ nước của chúng ta. Tôi nhớ đến tình
cảm "phụ tử chi binh" của thời Trần, "huynh đệ chi binh" của thời Lê và
"tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào" (Bình Ngô
đại cáo) có từ thời kháng chiến chống quân Minh.
Lịch sử dân tộc
ta từng chịu quá nhiều đau thương mất mát, bị tàn phá, hy sinh do các
cuộc chiến tranh xâm lược gây ra. Cũng chính vì thế mà dân tộc ta vô
cùng yêu quý hòa bình. Vì vậy, nói văn hóa giữ nước Việt Nam không chỉ
là sức mạnh chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, không chỉ là chiến lược, chiến
thuật các trận đánh, mà còn chính là văn hóa yêu hòa bình, và
không còn cách nào khác, phải chiến đấu cũng bởi vì hòa bình. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã xác quyết: "Chúng tôi đã nhiều lần chứng tỏ thiện chí
của mình. Nếu các ông muốn hòa bình thì sẽ có hòa bình. Còn nếu không,
muốn chiến tranh thì sẽ có chiến tranh" và "Hãy tin rằng chúng tôi sẽ
làm tất cả để tránh khỏi thảm họa này"(6). "Đó là một cuộc chiến mà chúng tôi bắt buộc phải làm, chúng
tôi là một dân tộc yêu chuộng hòa bình nhất thế giới"(7). Kẻ thù hung tàn, cường bạo đã bắt
buộc chúng ta phải vào cuộc chiến để giành hòa bình cho dân tộc, song,
với Đại tướng, đó phải là "một nền hòa bình trong tự do và công bằng...
chứ không phải hòa bình trong nhẫn nhục, mất danh dự và nô lệ"(8). Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ là
biểu hiện sáng ngời của văn hóa giữ nước - văn hóa yêu hòa bình Việt Nam,
bởi vì chiến đấu để "Lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn. Lấy chí nhân mà
thay cường bạo" như lời khẳng định đanh thép trong "Bình Ngô đại cáo".
Đó là tư tưởng quân sự độc đáo Việt Nam, biết cách đánh thắng bằng bản sắc văn hóa riêng của dân tộc chúng ta. Ở chiến trường Điện Biên Phủ, chúng ta đã thực hiện trọn vẹn, hoàn hảo điều đó./.