KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Luật Báo chí năm 2016 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2017. Gần 6 năm thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã tạo hành lang pháp lý để hoạt động báo chí phát triển vượt bậc; quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của nhân dân được bảo đảm và phát huy trong khuôn khổ Hiến pháp và luật định.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thi hành, một số quy định của Luật Báo chí năm 2016 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn của lĩnh vực báo chí dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện. Trước yêu cầu đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Báo cáo số 57/BC-BTTTT ngày 30/3/2022 báo cáo Chính phủ về kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Báo chí năm 2016 và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những nội dung, nhóm nội dung có quy định bất cập, không phù hợp với thực tiễn của pháp luật báo chí.
Có thể thấy, thực tiễn hoạt động đời sống báo chí là nguyên nhân dẫn đến việc cẩn sửa đổi Luật Báo chí năm 2016. Lý do: Thứ nhất, yêu cầu trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí và đòi hỏi của xã hội về lĩnh vực báo chí ngày càng cao, bức thiết hơn. Thứ hai, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và truyền thông đã làm cho hành lang pháp lý về báo chí và pháp luật có liên quan chưa theo kịp với thực tế. Nhiều loại hình truyền thông mới ra đời, nhiều hành vi mới phát sinh. Thứ ba, một số lãnh đạo cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên không muốn hoàn toàn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về báo chí, lợi dụng kẽ hở, lách các quy định để hoạt động báo chí với mục đích tiêu cực, không trong sáng.
Trong 7 nhóm vấn đề với 27 nội dung, quy định bất cập, không phù hợp thực tế có thể kể đến như sau:
Một là, đối với nội dung quy định về cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, Hội Nhà báo Việt Nam, cơ quan chủ quản báo chí. Điều 18, Điều 31 Luật Báo chí quy định về việc cấp các loại giấy phép trong hoạt động báo chí. Tuy nhiên, chưa có quy định về việc thu hồi giấy phép khi cơ quan báo chí không còn bảo đảm các điều kiện hoạt động.
Ban đầu, trong quá trình đề nghị cấp giấy phép hoạt động, các cơ quan báo chí đều thể hiện đáp ứng đầy đủ các điều kiện, có đề án hoạt động, cam kết bảo đảm về tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương án tài chính. Nhưng sau khi hoạt động một thời gian, một số cơ quan báo chí không có người đứng đầu cơ quan báo chí, không kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất nghèo nàn, cá biệt có trường hợp không có phóng viên chính thức. Đóng góp của các cơ quan báo chí này rất hạn chế, nảy sinh nhiều vấn đề, là một trong các nguyên nhân dẫn đến vi phạm trong hoạt động báo chí, thậm chí là lợi dụng tư cách báo chí để sách nhiễu, thu lợi bất chính.
Hai là, đối với quy định về đối tượng, điều kiện thành lập; mô hình hoạt động, cơ cấu tổ chức, cơ chế kinh tế - tài chính của cơ quan báo chí, Luật Báo chí chưa bao quát hết các mô hình, vấn đề của truyền thông hiện đại.
Ví dụ, việc tổ chức và hoạt động theo mô hình tòa soạn hội tụ, truyền thông đa phương tiện; báo chí công nghệ, sử dụng trí tuệ nhân tạo và cung cấp nội dung xuyên biên giới; hội tụ về nhân lực, hạ tầng, công nghệ, nguồn dữ liệu, sản xuất nội dung để phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều loại hình báo chí, các nền tảng công nghệ, các phương thức truyền thông mới là xu thế phát triển của báo chí hiện đại mà Luật Báo chí hiện hành chưa bao quát hết.
Ngoài 4 loại hình báo chí quy định trong Luật Báo chí, còn có nhiều loại hình hoạt động thông tin có tính chất như báo chí (như: Mạng xã hội, trang thông tin điện tử (web), ứng dụng (app) trong nước và xuyên biên giới cung cấp thông tin, video, chương trình phát thanh, truyền hình…). Mặt khác, với xu thế hội tụ công nghệ, truyền thông đa phương tiện, truyền dẫn đa nền tảng (truyền dẫn trên các hạ tầng mạng viễn thông như cáp, DTH, DTT, di động và đồng thời trên môi trường internet qua các trang web, app trong nước và xuyên biên giới vào Việt Nam); đồng thời có sự tương tác với người đọc, người nghe, người xem tại thời điểm phát thực.
Nhiều cơ quan báo chí chủ động xây dựng ứng dụng (app) tự phân phối nội dung trên internet, hoặc mở thêm kênh phân phối nội dung báo chí trên các nền tảng mạng xã hội trong nước xuyên biên giới (mở kênh trên Youtube, TikTok, mởfanpage trên Facebook, Lotus, Zalo…). Đây là một xu thế tất yếu của quá trình chuyển đổi số báo chí để lan toả nội dung báo chí đến người đọc theo những phương thức mới, khai thác nguồn thu quảng cáo bổ sung từ phương thức này.
Tuy nhiên, xu thế này đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý, đặc biệt là khi xảy ra sai sót hoặc tranh chấp trên những nền tảng xuyên biên giới chưa tuân thủ pháp luật Việt Nam. Do đó, Luật Báo chí cần có những quy định quản lý phù hợp bảo đảm mặt bằng phát triển chung và công bằng giữa báo chí với các loại hình truyền thông khác, cũng như điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh của sự phát triển.
Xu hướng các cơ quan báo chí điện tử thực hiện đa phương tiện, cung cấp thêm các video, audio cùng với các bài viết dẫn đến tình trạng ngày càng nhiều báo điện tử đã thực hiện làm các chuyên trang media, video, chuyên trang phát thanh (radio), tổ chức sản xuất các bản tin, chuyên đề truyền hình phát trên internet tại địa chỉ tên miền được cấp phép hoạt động báo điện tử, trên cơ sở được cấp phép thêm hình thức “media”. Việc các báo điện tử hiện được cấp phép thực hiện thêm các hình thức media, đang cạnh tranh trực tiếp với các đài phát thanh, truyền hình, dẫn đến khó khăn cho các đài trong quá trình hoạt động.
Do sự phát triển của internet băng rộng, đã xuất hiện nhiều dịch vụ cung cấp nội dung truyền hình (gồm: phim, chương trình âm nhạc, chương trình truyền hình - TV show) theo yêu cầu trên mạng internet (gọi là OTT VOD) của doanh nghiệp nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào lãnh thổ Việt Nam, có thu phí như: Netflix, iFlix, Wetv, Spotify… Nội dung cung cấp trên các dịch vụ được chuyển ngữ tiếng Việt, không qua cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình biên tập, kiểm soát theo quy định của Luật Báo chí, Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình. Bên cạnh đó, các mạng xã hội chia sẻ video trong nước (như: Zing TV, Keeng Movies…) thực hiện không đúng giấy phép mạng xã hội, cung cấp dịch vụ OTT VOD (chủ yếu phim, các chương trình phát thanh, truyền hình), không qua cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình biên tập, kiểm soát. Một số mạng xã hội có thu phí người xem thông qua hình thức nâng cấp thành viên. Một số đối tượng lợi dụng việc chỉ cung cấp VOD để không phải thực hiện theo quy định tại Nghị định số 06/2016/NĐ-CP.
Ba là, các quy định về nội dung thông tin báo chí. Hiện các quy định về nội dung chưa có quy định nội dung thúc đẩy chuyển đổi số.
Hiện nay, nhiều cơ quan báo chí đã bắt đầu thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ với các công nghệ số tiêu biểu là trí tuệ nhân tạo (AI), IoT, Cloud, Bigdata…, thay đổi phương thức vận hành, quản lý, áp dụng công nghệ trong quy trình sản xuất và phân phối nội dung, thực hiện các mô hình kinh doanh báo chí mới.
Những công nghệ số này đã và đang tạo ra môi trường cho báo chí phát triển theo các xu hướng báo chí: Cá nhân hóa nội dung; đa nền tảng; báo chí di động; báo chí xã hội; báo chí dữ liệu; báo chí sáng tạo; siêu tác phẩm báo chí. Nhiều cơ quan báo chí đã đổi mới, tiếp cận công nghệ làm báo hiện đại để đưa thông tin lên các hạ tầng, nền tảng truyền thông khác nhau để tăng khả năng tiếp cận tốt nhất của người dân, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất, đáp ứng nhu cầu, sở thích của công chúng.
Trong tương lai, Việt Nam có nền báo chí hiện đại, đa nền tảng, đa phương tiện, ứng dụng công nghệ số để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, ý nghĩa, được cá nhân hóa tới công chúng mọi lúc, mọi nơi, góp phần định hướng dư luận, củng cố sự đồng thuận và niềm tin xã hội. Trọng tâm của chuyển đổi số báo chí là đưa sản xuất nội dung và phân phối nội dung lên môi trường số, đổi mới cách làm nội dung, đổi mới mô hình quản lý, tác nghiệp, của cơ quan báo chí, tạo ra cơ hội, các giá trị gia tăng, đa dạng hóa nguồn thu để không chỉ dựa vào quảng cáo, làm chủ nền tảng phân phối nội dung trên không gian mạng
Bốn là, quy định về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú. Điều 22 Luật Báo chí quy định về điều kiện và hoạt động của văn phòng đại diện, phóng viên thường trú, song thực tế triển khai thời gian qua cũng còn không ít tồn tại, bất cập.
Luật Báo chí chưa có quy định giới hạn số lượng văn phòng đại diện, phóng viên thường trú hoặc quy mô cơ quan báo chí như thế nào thì được thành lập bao nhiêu văn phòng đại diện; chưa quy định cụ thể một người không được làm trưởng văn phòng của nhiều văn phòng đại diện khác nhau. Mô hình văn phòng đại diện không thống nhất, có nơi đại diện tại một địa phương, có nơi đại diện khu vực gồm nhiều tỉnh thành. Nhiều văn phòng đại diện chỉ có Trưởng văn phòng có thẻ nhà báo, còn lại phóng viên thuộc văn phòng là nhân viên quảng cáo hoặc cơ quan báo chí ký với các cá nhân không có chuyên môn, nghiệp vụ về báo chí làm cộng tác viên, không đáp ứng được yêu cầu về năng lực và trình độ của người làm báo. Có cơ quan báo chí lựa chọn và cử Trưởng văn phòng đại diện đủ điều kiện, nhưng chỉ ngồi ở tòa soạn tại Hà Nội, rất ít khi có mặt tại văn phòng, không quán xuyến hoạt động văn phòng đại diện. Nhiều văn phòng đại diện được thành lập ra nhưng hoàn toàn không được cơ quan báo chí cấp kinh phí hoặc đứng tên các hợp đồng thuê trụ sở, các phóng viên, cộng tác viên không có hợp đồng hoặc được đóng bảo hiểm xã hội qua cơ quan báo chí, gây khó khăn trong việc xác định thế nào là văn phòng đại diện đủ điều kiện hoạt động.
Một số tạp chí khoa học mở quá nhiều văn phòng đại diện, phóng viên thường trú không cần thiết cho hoạt động nghiên cứu, thông tin khoa học mà tập trung khai thác những vấn đề tiêu cực, bất cập của địa phương.
Tình trạng văn phòng đại diện, phóng viên thường trú hoạt động gây bức xúc cho địa phương, doanh nghiệp nguyên nhân là do một số cơ quan báo chí buông lỏng quản lý, thiếu kiểm soát để một bộ phận nhà báo, phóng viên, cộng tác viên không thực chất hoạt động nghiệp vụ, lợi dụng danh nghĩa báo chí để trục lợi; tạo sức ép về làm kinh tế, thậm chí là giao, khoán chỉ tiêu doanh thu, quảng cáo cho văn phòng đại diện, nhà báo, phóng viên, cộng tác viên.
Năm là, quy định về hoạt động tác nghiệp báo chí. Điều 27 Luật Báo chí quy định về điều kiện, tiêu chuẩn được xét cấp thẻ nhà báo. Điều kiện, tiêu chuẩn để được cấp thẻ nhà báo tại Luật Báo chí hiện hành đã đơn giản hơn, từ yêu cầu 3 năm công tác và phải có hợp đồng dài hạn tại cơ quan báo chí xuống còn 2 năm công tác liên tục tại cơ quan báo chí. Song, chưa có quy định yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí trước khi cấp thẻ nhà báo lần đầu.
Thời gian gần đây, một bộ phận nhà báo, phóng viên thiếu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản lĩnh chính trị; hoạt động thiếu chuẩn mực, ảnh hưởng đến hoạt động hợp pháp và gây bức xúc cho cơ quan, doanh nghiệp, địa phương; vi phạm đạo đức nghề nghiệp, trái quy định pháp luật, thậm chí bị xử lý hình sự.
Sáu là, quy định về tạp chí khoa học. Khoản 16 Điều 3 và khoản 2 Điều 14 quy định về khái niệm và đối tượng thành lập tạp chí khoa học.
Các tạp chí khoa học hiện chiếm đến 37% tổng số cơ quan báo chí, mang tính đặc thù hơn so với các sản phẩm báo chí thông thường khác với chức năng chính là công bố kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin về hoạt động khoa học chuyên ngành. Tuy nhiên, các quy định của Luật Báo chí về tạp chí khoa học còn chưa đầy đủ để tạo cơ sở cho sự phát triển của sản phẩm này; chưa quy định về tiêu chí và điều kiện bảo đảm chất lượng khoa học, chưa quy định trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong việc bảo đảm chất lượng khoa học.
Đại bộ phận tạp chí khoa học hoạt động theo cơ chế bao cấp từ cơ quan chủ quản, với nguồn kinh phí được cấp không đáng kể và gần như không có nguồn thu thương mại. Nhiều cơ quan chủ quản của tạp chí khoa học không thành lập cơ quan báo chí mà chỉ huy động nhân sự của các phòng, ban trực thuộc làm kiêm nhiệm công tác xuất bản tạp chí. Nhân sự của các tạp chí này thường là cán bộ nghiên cứu, giảng viên, giáo sư, bác sĩ, chuyên gia có học hàm, học vị khoa học kiêm nhiệm. Đối với các tạp chí khoa học, người đứng đầu đóng vai trò quan trọng, mặc dù đã được ưu tiên hơn về điều kiện xét cấp thẻ nhà báo, nhưng cần có uy tín, chuyên môn sâu để có thể phụ trách, biên tập, duyệt đăng các bài viết có hàm lượng nghiên cứu khoa học cao. Nhiều trường hợp người đứng đầu hoặc dự kiến bổ nhiệm người đứng đầu tạp chí có thể là người có uy tín trong giới nghiên cứu khoa học, nhưng lại không đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tiêu chuẩn chính trị hoặc độ tuổi bổ nhiệm lần đầu, gây khó khăn cho công tác tìm kiếm người đứng đầu tạp chí khoa học cũng như khó khăn cho công tác hiệp y bổ nhiệm.
Bảy là, một số quy định khác trong Luật Báo chí. Điểm C Khoản 2 Điều 23 Luật Báo chí quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí là có thẻ nhà báo (trừ tạp chí thuộc tổ chức tôn giáo, tạp chí khoa học). Quy định chưa phù hợp với thực tế đối với một số cơ quan báo chí đặc thù, nhất là cơ quan báo chí trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nhân sự từ cơ quan, đơn vị khác không có thẻ nhà báo được luân chuyển, điều động làm người đứng đầu cơ quan báo chí.
CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG, HOÀN THIỆN LUẬT BÁO CHÍ NĂM 2016
Từ những vấn đề thực tiễn nêu trên, có thể khẳng định, Luật Báo chí năm 2016 cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo đề xuất xử lý phương hướng sau:
Đối với quy định về cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 18, Điều 31 Luật Báo chí theo hướng thu hồi giấy phép hoạt động khi cơ quan báo chí không bảo đảm các điều kiện theo quy định tại Điều 17, Điều 30 Luật Báo chí.
Đối với quy định về đối tượng, điều kiện thành lập; mô hình hoạt động, cơ cấu tổ chức, cơ chế kinh tế - tài chính của cơ quan báo chí. Cân nhắc, xem xét sửa đổi tên Luật Báo chí thành “Luật Báo chí truyền thông”, mở rộng phạm vi điều chỉnh để bao quát các loại hình truyền thông hiện đại; làm rõ khái niệm, thúc đẩy phát triển tổ hợp báo chí - truyền thông, hệ sinh thái báo chí; khái niệm “chủ bút, chủ báo”…; điều chỉnh quy định về mô hình cơ quan báo chí, các loại hình báo chí, thông tin, truyền thông, từ đó bổ sung quy định quản lý phù hợp.
Bổ sung quy định quản lý các nội dung liên quan đến các loại hình hoạt động cung cấp nội dung thông tin trên trang thông tin điện tử, mạng xã hội quy định rõ điều kiện thành lập, hoạt động, vai trò, nhiệm vụ của trang tin điện tử tổng hợp; điều chỉnh quy định về hoạt động cung cấp nội dung phát thanh, truyền hình, cung cấp dịch vụ truyền dẫn phát sóng phát thanh, truyền hình phù hợp với thực tiễn và quản lý theo cách hiện đại, áp dụng công nghệ số.
Để Luật Báo chí năm 2016 sớm được sửa đổi và thực thi, hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã lậpđề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí, hoàn thành hồ sơ trong năm 2023 và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí trong năm 2025.
Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đề nghị các bộ, như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét, sớm trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Quảng cáo và các văn bản hướng dẫn nhằm bảo đảm sự phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ, của ngành quảng cáo và truyền thông hiện đại; nghiên cứu, sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để tăng cường trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trên không gian mạng trong việc bảo vệ bản quyền tác phẩm báo chí, bảo đảm quyền lợi công bằng giữa các cơ quan báo chí trong nước với các nền tảng xuyên biên giới. Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi chính sách nhằm hỗ trợ, ưu đãi về thuế cho các cơ quan báo chí. Bộ Công thương nghiên cứu, xem xét, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi Luật Cạnh tranh để kiểm soát cạnh tranh, chống độc quyền, quản lý hoạt động kinh doanh của các nền tảng xuyên biên giới.
|
Đối với các quy định về nội dung thông tin báo chí. Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng tạo ra hành lang pháp lý để xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các nền tảng công nghệ số trong nước, phân phối nội dung thông tin báo chí; phát triển cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, tổ hợp báo chí - truyền thông, báo chí trên nền tảng số; xây dựng công cụ/nền tảng thu thập, xử lý dữ liệu, đánh giá, dự báo, phản ánh chất lượng báo chí, xây dựng chỉ số đánh giá truyền thông xã hội dựa trên tác động của các nội dung tin tức trên không gian mạng từ các báo nhằm bảo đảm tính khách quan, trung thực phục vụ công tác quản lý báo chí; xây dựng dữ liệu độc giả; tự động hoá quy trình sản xuất, biên tập nội dung; ứng dụng công nghệ để nâng cao chất lượng nội dung và cải thiện trải nghiệm của người dùng; phát triển các mô hình liên kết giữa báo chí với công ty công nghệ, nhà mạng viễn thông, doanh nghiệp quảng cáo, các nền tảng xuyên biên giới; chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế để đẩy mạnh chuyển đổi số.
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí, việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cũng cần được thực hiện đồng bộ, song song nhằm thúc đẩy, hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của các cơ quan báo chí: Sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để xử lý vi phạm về bản quyền báo chí, tăng cường trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trên không gian mạng trong việc bảo vệ bản quyền tác phẩm báo chí; quyền và trách nhiệm của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan trong việc đàm phán, thỏa thuận thu và phân chia tiền bản quyền, bảo đảm quyền lợi công bằng giữa các cơ quan báo chí trong nước với các nền tảng xuyên biên giới. Sửa đổi Luật Quảng cáo, Luật Cạnh tranh để kiểm soát cạnh tranh, chống độc quyền, quản lý hoạt động kinh doanh của các nền tảng xuyên biên giới có thị phần khống chế thị trường quảng cáo trực tuyến, bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trước pháp luật đối với doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam.
Đối với quy định về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú. Sửa đổi, bổ sung Điều 22 Luật Báo chí theo hướng quy định rõ một số mô hình chung của văn phòng đại diện phù hợp với cơ cấu, tổ chức và quy mô cơ quan báo chí; quy định số lượng văn phòng đại diện, phóng viên thường trú tương ứng với quy mô của cơ quan báo chí; bổ sung điều kiện, cơ cấu, quyền hạn và nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng đại diện, trưởng văn phòng đại diện. Quy định tạp chí nghiên cứu khoa học thì không mở văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú; bổ sung điều kiện phóng viên thuộc văn phòng đại diện phải có hợp đồng chính thức với cơ quan báo chí; quy định cụ thể số lượng phóng viên thường trú độc lập tại mỗi địa phương là 1 người…
Đối với quy định về hoạt động tác nghiệp báo chí. Sửa đổi, bổ sung Điều 27 Luật Báo chí theo hướng quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn, điều kiện cấp thẻ nhà báo, nhất là điều kiện về phẩm chất đạo đức, tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phải qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo.
Đối với quy định về tạp chí khoa học. Có hai phương án sửa đổi, cụ thể như sau: Một là, sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng phân định tạp chí khoa học với các sản phẩm báo chí khác. Quy định tiêu chí, điều kiện khoa học để thành lập tạp chí khoa học. Tạo cơ chế đặc thù về mô hình, ngân sách hoạt động, cơ chế tài chính của tạp chí khoa học; tiêu chuẩn, điều kiện người đứng đầu tạp chí khoa học cần đặc thù so với các cơ quan báo chí khác. Hai là, sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng không quy định các ấn phẩm công bố các nghiên cứu khoa học hoặc bài viết khoa học là cơ quan báo chí, không chịu sự điều chỉnh của Luật Báo chí.
Đối với một số quy định khác trong Luật Báo chí. Sửa đổi, bổ sung Điểm C Khoản 2 Điều 23 Luật Báo chí: Tiêu chuẩn bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí là có thẻ nhà báo không áp dụng với một số cơ quan báo chí đặc thù.
Trọng Quý