GIÚP TRUNG ƯƠNG TỔNG KẾT VÀ CÓ NHỮNG QUYẾT SÁCH MỚI
Quay ngược lại thời gian, trở lại những năm đầu đổi mới, đất nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội VI: “Nước ta đang trong tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây về kinh tế, đời sống của nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin giảm sút”. Là hoạt động đi trước, đi cùng và đi sau mỗi nhiệm vụ cách mạng, mỗi chặng đường cách mạng của đất nước, hoạt động của công tác tư tưởng thời kỳ này đã có những đóng góp quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.
Trước Hội nghị Trung ương 8 khóa V, các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đều chuẩn bị để Ban Chấp hành Trung ương ra nghị quyết về một lĩnh vực “rất nóng bỏng và rối ren” là giá, lương, tiền. Quá trình hình thành nghị quyết này đã góp phần thay đổi tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta. Đây chính là kết quả rút ra từ thực tiễn và kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương chính sách của Đảng ta không những về giá cả tiền lương mà cả về thương nghiệp, tài chính, tiền tệ, về cơ chế kế hoạch hóa và quản lý kinh tế nhằm triệt để xóa bỏ quan liêu, bao cấp chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN là chuyển một bước từ điều khiển nền kinh tế bằng phương pháp chủ quan, mệnh lệnh sang điều khiển chủ yếu thông qua việc vận dụng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội (CNXH) và quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa XHCN có kế hoạch. Điều này đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Phát huy mạnh mẽ những kết quả trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Nghị quyết Trung ương 8 khóa V, công tác tư tưởng đã tiến hành tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV và V để xây dựng Đề cương dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá V trình Đại hội VI. Hoạt động tư tưởng cũng có hai hoạt động nổi bật diễn ra trong năm 1986 đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong tư duy lý luận của Đảng ta đối với đánh giá tình hình, nhận thức về cách mạng XHCN trong chặng đường đầu tiên.
Trong việc tổ chức lấy ý kiến của cán bộ các ngành, các cấp góp ý dự thảo Đề cương Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI của Đảng, có rất nhiều ý kiến băn khoăn, chưa nhất trí với đánh giá tình hình cả thành tựu và những khuyết điểm sai lầm. Điều quan trọng nhất, Dự thảo chưa đưa ra được những giải pháp lớn để phát triển kinh tế - xã hội ra khỏi cuộc khủng hoảng đang diễn ra rất trầm trọng. Kết thúc Hội nghị Trung ương 10, Đảng ta nhận thức sáng tỏ những đặc điểm nổi bật của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (TBCN). Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa V, Đảng ta nêu lên 3 bài học kinh nghiệm, đây là cơ sở để xây dựng đường lối đổi mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đó là: Thứ nhất, sức mạnh của một nước, của cách mạng chính là ở nhân dân. Thứ hai, trong công tác lãnh đạo, phải tôn trọng quy luật khách quan, vận dụng nó vào thực tế. Thứ ba, để đảm bảo huy động được đầy đủ sức mạnh của nhân dân trên con đường đi lên CNXH, đảm bảo cho việc tự giác vận dụng các quy luật, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tác dụng tích cực của chúng, nhất thiết phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Thấu suốt 3 bài học kinh nghiệm lớn trên đây, Trung ương Đảng khóa V đã sửa chữa, bổ sung hoàn thiện những nội dung cơ bản của Báo cáo Chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 và được thông qua lần cuối. Bộ Chính trị chính thức thông qua kết luận về ba vấn đề thuộc quan điểm kinh tế lớn: Về cơ cấu kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ; về cải tạo XHCN và củng cố quan hệ sản xuất mới; về cơ chế quản lý kinh tế. Ba quan điểm trên đã thay đổi cơ bản nội dung của dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng. Đặc biệt sau Hội nghị này, Đảng đã vượt lên chính mình, dũng cảm thừa nhận những sai lầm.
Có thể thấy rằng, việc đổi mới cơ chế quản lý theo phương hướng trên là một cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng sâu sắc. Muốn thực hiện cuộc cải cách này, nhất thiết phải đổi mới tư duy kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy của các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Tư duy kinh tế mới phải dựa trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn hệ thống quy luật đang tồn tại và vận động một cách khách quan trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của chặng đường đầu tiên; trong đó các quy luật đặc thù của CNXH giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời phải khắc phục những quan niệm cũ kỹ giản đơn, cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội, những thành kiến đối với quan hệ hàng hóa - tiền tệ và thị trường. Khắc phục tư tưởng chủ quan thoát ly thực tế xa rời quần chúng, vừa bảo thủ, vừa nóng vội trong công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế.
Trước thực tiễn cuộc sống vô cùng sinh động nhưng không ít những khó khăn phức tạp, việc có những ý kiến khác nhau là lẽ bình thường. Điều quan trọng nhất, cần chân thành thẳng thắn, có thái độ xây dựng trong khi thảo luận để tìm ra chân lý nhằm đạt tới nhất trí cao, hết sức tránh vội vàng quy chụp.
Từ những sự kiện của lịch sử, có thể khẳng định rằng, quá trình cách mạng XHCN ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải đổi mới trên nhiều mặt: đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức, cán bộ. Có như vậy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội VI đề ra. Sự đổi mới đó dựa trên những bài học được đúc kết từ những thắng lợi đã đạt được và những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.
Có thể khẳng định, công tác tuyên giáo thời kỳ này đã thực hiện nhiệm vụ quan trọng là giáo dục toàn Đảng, toàn dân kiên định con đường XHCN, thống nhất về chính trị và tư tưởng trong việc sớm thống nhất đất nước ngay sau khi giành được thắng lợi giải phóng miền Nam, đưa cả nước đi lên CNXH. Công tác tuyên giáo đã kiên trì đấu tranh chống hữu khuynh, chủ quan, say sưa với thắng lợi, mất cảnh giác cách mạng, động viên toàn dân khắc phục khó khăn, gian khổ, tìm cách tháo gỡ khó khăn, tìm tòi cơ chế quản lý mới phù hợp với thực tiễn. Công tác tuyên giáo đã bám sát thực tiễn cùng với các ngành phát hiện và biểu dương nhân tố mới trong kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt trong kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, lưu thông phân phối đã có sáng tạo đổi mới cơ chế quản lý. Những nhân tố tích cực đó giúp Trung ương tổng kết và có những quyết định, chính sách mới, tạo tiền đề và điều kiện cho công cuộc đổi mới.
NÂNG CAO NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, công tác tuyên giáo đã góp phần đổi mới tư duy và nâng cao năng lực phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các văn kiện của Đại hội VI thể hiện bước đầu đổi mới tư duy của Đảng. Vì vậy, hoạt động học tập, nghiên cứu quán triệt các văn kiện Đại hội VI
được gắn chặt với học tập quán triệt chuyên đề Đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nghiên cứu chuyên đề này, đội ngũ cán bộ, đảng viên được quán triệt sâu sắc quan niệm về tư duy, nội dung tư duy, phương pháp tư duy, sự cần thiết phải đổi mới tư duy, những điều kiện để cán bộ, đảng viên có thể đổi mới được tư duy… Và điều rất quan trọng nhất là, trên cơ sở nhận thức sâu sắc vấn đề đổi mới tư duy, cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu sâu sắc rằng: Đường lối Đại hội VI của Đảng vừa hợp quy luật vừa hợp lòng dân. Nhận thức này là cơ sở tạo nhất trí cao trong toàn Đảng và sự đồng thuận sâu rộng trong xã hội với đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN. Bài học thành công của công tác tư tưởng trong học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội VI là phải gắn chặt việc bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên với việc học tập, nghiên cứu, quán triệt các Văn kiện Đại hội VI của Đảng.
Công tác tư tưởng có trọng trách trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng tới Chân - Thiện - Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học.
Đầu những năm 1990, hoạt động của công tác tư tưởng đã chuẩn bị tốt cơ sở lý luận và thực tiễn giúp cho Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đánh giá đúng tình hình các nước XHCN đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ trước tới nay; cắt nghĩa nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng này, dự báo những khả năng diễn biến của tình hình và đánh giá đúng tác động của cuộc khủng hoảng và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta, quyết định đúng đắn, kịp thời 5 nhiệm vụ cấp bách. Trong đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là tăng cường công tác tư tưởng trên cơ sở làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, các chiến sỹ trong lực lượng vũ trang hiểu rõ tình hình, thấu suốt những nhận định và chủ trương của Trung ương. Hoạt động tư tưởng của Đảng ta trong thời kỳ này đã triển khai đồng bộ và có chất lượng hiệu quả các đợt sinh hoạt chính trị, học tập nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khoá VI trên cơ sở nghiên cứu, quán triệt, kiên định các quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam; độc lập dân tộc và CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta; kiên định sự lãnh đạo của Đảng là đảm bảo vững chắc thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN; khẳng định những thành tựu của công cuộc đổi mới; chống khuynh hướng phủ định thành quả cách mạng. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, các lớp tập huấn, mọi cán bộ, đảng viên kiên định vững vàng trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, khắc phục những biểu hiện giáo điều rập khuôn; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế, khắc phục tư tưởng ỷ lại và ảo tưởng. Thực hiện một chủ trương, giải pháp của Nghị quyết này, hoạt động tư tưởng của Đảng đã tập trung lực lượng tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn lịch sử 60 năm cách mạng Việt Nam, những vấn đề thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, những vấn đề về CNTB hiện đại và CNXH dân chủ, chuẩn bị tốt cơ sở khoa học, lý luận, thực tiễn để Đảng ta xây dựng cương lĩnh, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua.
TOÀN ĐẢNG LÀM CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Đảng ta đã tăng cường lãnh đạo đổi mới công tác tư tưởng. Sự đổi mới này bắt đầu từ thực hiện nguyên tắc: Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là Bí thư cấp uỷ. Tiếp theo, phải đổi mới nội dung đến đổi mới phương thức công tác tư tưởng, từ đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống các cơ quan tham mưu công tác tư tưởng; đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư tưởng, từ cán bộ nghiên cứu lý luận, giảng dạy lý luận, cán bộ tuyên truyền cổ động, cán bộ phóng viên báo chí - xuất bản phát hành, cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa - văn nghệ đến đội ngũ văn nghệ sỹ; cùng với quá trình đổi mới phải từng bước hiện đại hóa các công cụ phương tiện công tác tư tưởng.
Nhiệm vụ công tác tư tưởng của thời kỳ này chủ yếu là đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu CNXH, tinh thần quốc tế vô sản, khơi dậy ý chí cách mạng của quần chúng. Công tác tư tưởng phải đổi mới toàn diện và đồng bộ về nội dung, tổ chức và phương pháp, con người và phương tiện hoạt động. Thuận lợi cơ bản của công tác tư tưởng là: Đường lối đổi mới của Đảng hợp lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, trong xã hội, không khí phấn khởi, tin tưởng bao trùm, hăng hái lao động sản xuất, thực hiện chính sách kinh tế mới, dân chủ, “bung ra’’ cách làm ăn mới, không bị “ngăn sông cấm chợ’’ như trước. Hơn bao giờ hết, lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp đã coi trọng công tác tư tưởng.
Trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới, hoạt động của công tác tư tưởng đã chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng ta xây dựng đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, hình thành cương lĩnh, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Truyền bá cương lĩnh đường lối đổi mới của Đảng cho cán bộ, đảng viên, để hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, thành niềm tin lý tưởng, thành nguyên tắc đạo đức, thành tình cảm cách mạng. Trên cơ sở đó, nhân dân ta đồng lòng nhất trí tự giác hành động cách mạng vượt qua những khó khăn thách thức gay gắt của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và nhất là vượt qua cơn địa chấn chính trị - sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu năm 1991, vẫn giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên giành thắng lợi to lớn toàn diện, có ý nghĩa lịch sự, tạo điều kiện tiền đề cho nước ta bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nhìn lại những hoạt động chủ yếu nổi bật của công tác tư tưởng trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là một phần cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của mình. Công tác tư tưởng cùng với công tác tổ chức góp phần trực tiếp xây dựng Đảng ta mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng Đảng thành Bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Hoạt động tư tưởng nhằm phát triển hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền bá hệ tư tưởng; hình thành và truyền bá cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và quần chúng đông đảo nhằm đem lại cho họ sự giác ngộ về thế giới quan khoa học, về nhân sinh quan cộng sản, biến nó trở thành niềm tin lý tưởng, lẽ sống, thành nguyên tắc đạo đức, thành tình cảm cách mạng. Trên cơ sở đó quần chúng nhân dân tự giác hành động cách mạng, hoàn thành thắng lợi từng nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ, đi tới thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Và chắc chắn rằng, trong những ngày Tháng Tám lịch sử này, đội ngũ những người làm công tác tư tưởng - văn hóa cả nước tự hào kỷ niệm 90 năm ngày truyền thống vẻ vang của mình với niềm tin tưởng sắt son cùng khát vọng tiếp tục đổi mới, sáng tạo để làm tròn trọng trách của hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước./.
PGS. TS. Đào Duy Quát
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương