Lịch sử Việt Nam và thế giới cho thấy, các cuộc cách mạng lật đổ chế độ xã hội hoặc thay đổi lực lượng cầm quyền, còn gọi là “cách mạng mầu” thường là kết quả của sự vận động, tập hợp lực lượng quần chúng lúc bí mật, khi công khai của các đảng chính trị. Đến lượt mình khi đã trở thành đảng cầm quyền, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, mà họ lựa chọn chế độ đa đảng hay “độc” đảng.
Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia thường không có một chế độ đa đảng hoặc một lãnh đạo - cầm quyền thuần khiết. Trong chế độ đa đảng, bao giờ cũng có một đảng cầm quyền hoặc lãnh đạo, có khi kéo dài nhiều thập kỷ. Trong chế độ một đảng cầm quyền thì thường được bổ sung bằng sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội chính thức (trong hệ thống chính trị) hoặc phi chính thức (các tổ chức phi chính phủ - NGOs).
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng chính trị với chế độ xã hội, nhiều người hoặc cố tình hoặc ngây thơ về chính trị đã bỏ qua nhiều yếu tố khác, như bối cảnh lịch sử cụ thể hoặc liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia, trật tự xã hội. Không ít người đã bị dẫn dắt, rơi vào sân chơi dân chủ, nhân quyền của các lực lượng chống cộng. Theo họ, mối quan hệ giữa chế độ đảng (đa đảng hoặc một đảng) lãnh đạo với dân chủ là mối quan hệ duy nhất. Đời sống đã chỉ ra không phải như vậy. Đa đảng không phải là không tốt, cũng như một đảng không phải là không có lý. Tình trạng quốc hội “treo” như ở Anh quốc vừa qua, hoặc cuộc xuống đường, xung đột giữa những người “áo đỏ” với Chính phủ đương nhiệm ở Thái Lan thiết tưởng giúp người ta có thêm các căn cứ để suy nghĩ về những khó khăn, phức tạp của chế độ dân chủ - đa đảng.
Ở Việt Nam cho đến nay có bao nhiêu quan điểm về đa đảng – xét trên các quan điểm chính trị?
Thứ nhất, đó là quan điểm của các nhà dân chủ - hàn lâm (Academic Democracy). Theo họ dân chủ là động lực của phát triển. Chế độ dân chủ tất yếu phải gắn với đa đảng, với cạnh tranh về chính trị. Đương nhiên quan điểm của các nhà dân chủ - hàn lâm không sai về mặt lý thuyết, nhưng họ đã bỏ qua yếu tố đặc thù về lịch sử và thực tiễn chính trị ở các quốc gia.
Thứ hai, đó là quan điểm của các nhà dân chủ thực dụng. Quan điểm này cho rằng, hiện nay ở nước ta đang tồn tại rất nhiều vấn đề bức xúc của người dân do tình trạng quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm của cán bộ, công chức gây ra. Tình trạng này có thể giảm thiểu nếu có thêm các đảng phái khác tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhưng những nhà dân chủ thực dụng đã không thấy rằng, ở nhiều quốc gia “đa đảng” đâu phải không còn quan liêu tham nhũng. Mặt khác, quan điểm này đã không tính đến việc các thế lực thù địch có thể lợi dụng chế độ đa đảng để thực hiện mưu đồ xấu xa của họ.
Thứ ba, đó là quan điểm của các nhà dân chủ giả hiệu. Về lập luận, quan điểm của họ không khác các nhà dân chủ - hàn lâm. Thêm vào đó họ còn đưa ra chứng cứ như ở Việt Nam “đã từng có chế độ đa đảng”. Ví dụ như: “Quốc hội đầu tiên, 1946, là Quốc hội đa đảng (vì có 72 ghế tại Quốc hội không qua bầu cử, dành cho Việt Nam quốc dân Đảng và Việt Nam cách mạng Đảng), hoặc “Hiến pháp 1992 “hiển hiện” chế độ đa đảng” - vì Hiến pháp không quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo… (Trong bài viết này tác giả không có ý định tranh luận về những vấn đề trên).
Sự khác biệt căn bản của những người dân chủ giả hiệu với những người dân chủ hàn lâm là ở ý đồ chính trị. Với những người dân chủ giả hiệu, đây không chỉ là nhằm tuyên truyền học thuyết, mà là tham vọng thay đổi thể chế chính trị Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho các đảng phái chính trị ở hải ngoại “hồi hương” – như “Đảng Việt Tân”, “Liên minh dân chủ nhân quyền”, “Đảng Nhân dân hành động”, “Đảng Dân chủ Việt Nam”… Những đảng này không chỉ là những tổ chức chính trị chống cộng mà còn là những tổ chức mang tính chất khủng bố, hoạt động nhằm lật đổ Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Điều này hoàn toàn đi ngược lại Hiến chương Liên hợp quốc và nguyên tắc của Luật quốc tế. Đồng thời, việc tuyên truyền cho quan điểm đa đảng của họ còn nhằm tạo cơ hội cho những tổ chức đảng phái đang trong thời kỳ “thai nghén” tại “quốc nội” ra đời như “Đảng Xã hội Việt Nam”, “Đảng Dân chủ Việt Nam” do Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Công Định chủ trương…
Trong số những người đang kêu gọi “đa nguyên”, “đa đảng” không loại trừ có kẻ đã từng thực hiện “Luật 10/59 - đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” đã chém giết hàng chục ngàn người cộng sản và người yêu nước trong những năm cuối thập kỷ 50 thế kỷ XX. Phần lớn những kẻ đang tuyên truyền cho đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập cho Việt Nam ở hải ngoại đều đang giữ hận thù với cách mạng hoặc xuyên tạc, phủ nhận thành quả cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, trong đó có cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau 35 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975- 2010), đây là lúc cả dân tộc tự hào và bày tỏ lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ, trong đó có hàng vạn cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hy sinh thì Bùi Tín lại kêu gọi “Mọi người yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản thành khẩn xin lỗi toàn dân”! Có kẻ còn coi ngày đất nước được giải phóng là ngày “quốc hận”. Đó là chân dung của những kẻ đang đòi đa đảng ở hải ngoại.
Vậy cơ sở lịch sử, chính trị và pháp lý vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là gì?
Về lịch sử ai cũng biết 80 năm qua (kể từ khi thành lập Đảng, 3-2-1930, đến nay), Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là lực lượng duy nhất tổ chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong, không sợ hy sinh gian khổ trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng nước Việt Nam hiện đại với chế độ dân chủ - cộng hòa. Lần đầu tiên trong lịch sử, các quyền công dân và quyền con người của người dân được ghi nhận trong Hiến pháp (1946). Tiếp đó Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành các cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược bảo vệ thành quả của cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là lực lượng chính trị duy nhất khởi xướng công cuộc đổi mới, hội nhập với cộng đồng quốc tế tạo nên vị thế mới của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Về chính trị - tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần cách mạng và sáng tạo. Mục tiêu của Đảng là: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia đồng thời xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập quốc tế trên tinh thần “Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế – không phân biệt chế độ xã hội”.
Những kẻ đang tuyên truyền cho đa đảng thường cũng là những kẻ đang bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam. Lập luận của họ theo lô-gích giả dối: Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã lỗi thời, Chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ (lập luận của họ thường là chép lại quan điểm của những kẻ chống cộng, như Brê-din-xky trong cuốn “Thất bại lớn” hoặc của Phu-ku-y-a-ma trong bài “Điểm tận cùng của lịch sử”) để suy ra: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng tất nhiên sẽ trở thành một lực lượng chính trị lạc hậu; xã hội XHCN ở Việt Nam sẽ bị sụp đổ. Và, do đó Việt Nam cần phải có một đảng chính trị mới dẫn dắt dân tộc đi lên! Điểm khởi đầu là việc chấp nhận chế độ đa đảng! Tất nhiên những giáo sư, tiến sĩ, “viện sĩ”, “sử gia”, “nhà biên khảo”, nhà văn, nhà báo viết về dân chủ - đa đảng hầu hết họ đều đọc Mác một cách phiến diện, hoặc với tư duy tư biện. Họ hoặc cố tình che giấu, hoặc ngây thơ lờ đi tư duy mới, đường lối chính trị và chính sách mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH, trong đó Đảng ta đã thừa nhận những sai lầm khuyết điểm của mình trong thời kỳ trước đổi mới (như chủ quan duy ý chí, xóa bỏ kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường…). Đảng ta đã khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội và hội nhập với cộng đồng quốc tế...
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Văn kiện Đại hội X viết: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Bởi vậy không thể nói Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng “độc quyền”. Nói như vậy không có nghĩa phủ nhận trong Đảng hiện nay vẫn còn một số người lạm dụng uy tín của Đảng rơi vào căn bệnh quan liêu, tham nhũng, thoái hóa biến chất vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đang bị thải loại trong cuộc chỉnh đốn đảng.
Về pháp lý, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Quốc hội nhất trí và được quy định tại Điều 4, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992). Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế. Tại Điều 1, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) ghi: “Tất cả các Quốc gia đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình, tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá”(1).
Vậy đa đảng, “độc” đảng - đâu là chân lý? Chân lý tồn tại ở thực tiễn, ở lợi ích tốt nhất cho dân tộc. Sự lựa chọn chế độ đa đảng hay một đảng lãnh đạo - cầm quyền phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. Trước tiên phải đặt lợi ích của cả dân tộc lên trên hết, phải lấy an ninh quốc gia, ổn định và phát triển bền vững làm tiền đề (cho các yêu cầu khác). Thứ hai, đương nhiên lựa chọn chế độ nào đều phải được sự đồng tình, ủng hộ của đại đa số nhân dân, thông qua những người đại diện của mình đó là Quốc hội./.
(Theo: Lệ Chi/QĐND)
_____________________________
1. Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người” HN.2002.tr 250