Những sự kiện, nhân vật, tư tưởng có tầm vóc và ảnh hưởng tạo dấu ấn tích cực, tiến bộ đối với một cộng đồng dân tộc hoặc nhân loại, đều được coi là những giá trị lịch sử. Các giá trị lịch sử đích thực, thường không bị hạn chế bởi thời gian, địa điểm diễn ra nó. Tác dụng của các giá trị lịch sử thường lan tỏa vừa theo chiều rộng của không gian, vừa theo chiều sâu của đời sống con người qua các thế hệ kế tiếp nhau.
Với ý nghĩa đó, đề cập giá trị lịch sử của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ, gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế, là bàn về một vấn đề rất lớn, tác giả bài viết nhỏ này, chỉ trình bày một số quan điểm, luận điểm của Hồ Chí Minh đã và đang được thực tiễn chứng minh là có giá trị lịch sử lâu bền đối với sự vận động của cách mạng Việt Nam.
1. Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của nước Việt Nam, Hồ Chí Minh giải thích: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào” (1) Đối với Hồ Chí Minh, phẩm chất Độc lập tự chủ được bộc lộ từ rất sớm, cả trong hoạt động thực tiễn và trong tư tưởng - chính trị của Người. Phẩm chất đó trước hết thể hiện ở bản lĩnh tự tin, tự lực, tự cường, tự khẳng định mình (với tư cách là một cá nhân), tự khẳng định chủ quyền (với tư cách là một quốc gia, dân tộc), thể hiện ở tính chủ động, sáng tạo trong tư duy và hành động - không rập khuôn, máy móc, không thụ động/phụ thuộc hoặc ỷ lại.
Độc lập tự chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình hoạch định đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, “phải vạch rõ những phương pháp và những biện pháp của riêng mình”. Đường lối đó phải phục vụ lợi ích quốc gia như: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm: “Nước ta là một bộ phận của thế giới", Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không thể hạn chế những hoạt động đó trong khuôn khổ dân tộc thuần tuý, bởi những hoạt động đó “có muôn ngàn sợi dây liên hệ” với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ.
Và, điều đặc biệt quan trọng nữa là, khi nhấn mạnh yêu cầu độc lập tự chủ trong hoạch định đường lối phát triển của quốc gia, Hồ Chí Minh cũng cảnh báo hai khuynh hướng cần phải tránh: một là, nếu không “chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”; Hai là, “nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại” (2).
Nhìn lại lịch sử, có thể nhận diện một cách rõ ràng giá trị thực tiễn của những vấn đề nói trên trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Từ lúc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) cho đến thập niên đầu của thế kỷ XX, trước sự thất bại của phong trào đấu tranh chống Pháp đã có những người Việt Nam đi ra nước ngoài mong tìm sự giúp đỡ của chính phủ các nước cho sự nghiệp đánh đuổi người Pháp, giải phóng dân tộc. Năm 1886, Tôn Thất Thuyết lên đường sang Trung Quốc cầu viện; Phan Bội Châu với quan niệm “đồng văn đồng chủng” đã đi sang Nhật Bản - là nước vừa chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh Nhật - Trung (1894) và Nhật - Nga (1905) để cầu viện và tiếp theo là cầu học. Lúc bấy giờ, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) mặc dù rất khâm phục các vị cách mạng tiền bối, nhưng Người không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Người “đã khước từ sự lựa chọn của Phan Bội Châu đối với mình và rời Tổ quốc ra đi về phía Tây”(3) . Nguyễn Tất Thành xuất dương (6-1911) để tìm con đường, cách thức (chứ không phải là cầu viện) đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào. Người nói: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” . Đây được coi là biểu hiện phẩm chất độc lập tự chủ, sỏng tạo đầu tiờn trong tư duy và hành động của nhà cỏch mạng trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành (4).
Với mục đích đó được xác định, trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước Nguyễn Tất Thành đã làm mọi việc, từ phụ bếp trên con tàu Pháp của hãng “Vận tải hợp nhất” đến cào tuyết trong một trường học, đốt lò, làm vườn, làm thợ rửa ảnh...(5) Thông qua lao động, Nguyễn Ái Quốc đã gần gũi với cuộc sống của nhân dân lao động, hiểu được nỗi thống khổ, hiểu được nguyện vọng, ý chí, năng lực của họ và đồng cảm với họ. Với tầm hiểu biết rộng lớn và vốn thực tiễn phong phú, sâu sắc, ở Nguyễn Ái Quốc đã sớm hình thành những nhận thức mới so với các nhà yêu nước đương thời. Trong đó có những vấn đề rất cụ thể và thiết thực đối với cách mạng Việt Nam. Trước hết, Nguyễn Ái Quốc nhận rõ đối tượng của cách mạng thế giới là chủ nghĩa thực dân, đế quốc (không phân biệt màu da), vì ở bất kỳ đâu, chúng cũng tàn bạo, bất công và độc ác. Đương thời, có một số nhà yêu nước vì chưa nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nên họ đã mắc phải sai lầm: “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương... điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”(6) ; tiếp theo, là việc thấy rõ, nhân dân lao động thuộc địa hay chính quốc đều bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng thế giới.
Từ đó, Người hiểu rõ cách mạng là tất yếu khách quan, là nhu cầu của nhân dân bị áp bức trên thế giới; đồng thời nhận thức được khả năng và điều kiện để nhân dân Việt Nam liên minh, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình.
Và, lịch sử minh chứng rằng, con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh lựa chọn trên cơ sở tư duy độc lập, sáng tạo và vốn thực tiễn phong phú, vào cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XX, đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đấu tranh thoát khỏi ách áp bức, nô dịch của thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến, mở đường cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam đi tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Cũng trên cơ sở độc lập và tự chủ, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc trong khi khẳng định giá trị phổ biến của những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác-Lênin; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và chế độ cộng sản có thể áp dụng vào cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, thì đồng thời Người cũng cho rằng “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” (7). Trong đó, trước hết cần phải bổ sung học thuyết Mác bằng truyền thống lịch sử, văn hoá của các dân tộc cụ thể.
Thực tế cho thấy, qua Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam không phải với tư cách là một hệ thống hoàn bị gồm triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, mà đã có sự lựa chọn, bổ sung “nội địa hoá”, phát triển cho phù hợp với thực tiễn xã hội, con người Việt Nam. Điều đó được thể hiện cụ thể trong Đường cách mệnh - tác phẩm xác định phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam, trực tiếp chuẩn bị về chính trị tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; thể hiện qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3-2-1930); thể hiện trong việc xác định hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của hai miền Nam, Bắc (giai đoạn 1954-1975). Chính sự độc lập và tự chủ, sáng tạo đó mà cách mạng Việt Nam có được một đường lối đúng đắn, tập hợp được hết thảy người dân Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam mới, đánh thắng hai đế quốc xâm lược là Pháp và Mỹ, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Về vấn đề "chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình" để tránh chủ nghĩa giáo điều và tiếp thu "giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em" trong hoạch định đường lối lãnh đạo đất nước theo quan điểm Hồ Chí Minh đã được quán triệt, thẩm thấu trong đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho đường lối đó thâm nhập vào cuộc sống, soi sáng thực tiễn và trở thành ngọn cờ thức tỉnh, động viên nhân dân Việt Nam tham gia tự giác phong trào cách mạng, làm nên những thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
2. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên xác định và thực thi quan điểm gắn cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, theo phương châm “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả” (8) . Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm đường cứu nước đã đóng góp to lớn trên phương diện nhận thức và thực tiễn về ý nghĩa của đoàn kết quốc tế, đồng thời góp phần liên hiệp các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Trên cơ sở phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “không gây thù oán với một ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng, nhiều nấc, Hồ Chí Minh đã mở rộng biên độ đoàn kết quốc tế theo quan điểm “Mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta” (9); “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” (10) . Đây chính là phương châm quan hệ quốc tế, là cơ sở để xác lập tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đấu tranh cho hoà bình và cùng tồn tại hoà bình là một nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết hợp tác quốc tế. Hồ Chí Minh từng tuyên bố: “Nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho kẻ nào xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn không xâm lược nước khác” (11) . Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã mở được quan hệ ngoại giao với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (18-1-1950); Liên Xô (30-1-1950); các nước Đông Âu và Triều Tiên... Với các sự kiện ngoại giao nói trên, cách mạng Việt Nam đã thoát khỏi vòng vây của kẻ thù; cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam trở thành một bộ phận trong phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được nâng cao trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ của nhân dân thế giới (12), mở rộng sự ủng hộ của quốc tế, đưa cuộc cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược đến thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, trên cơ sở khai thác triệt để mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các đồng minh của Mỹ; giữa phái chủ chiến với phái chủ hoà, giữa các tập đoàn có lợi ích khác nhau trong giới cầm quyền Mỹ; giữa Mỹ với các nước phụ thuộc, giữa Mỹ với chính quyền tay sai; giữa nhà cầm quyền Mỹ với các tầng lớp nhân dân Mỹ (13); và, trên cơ sở tranh thủ sự đồng tình của các lực lượng tiến bộ quốc tế, cách mạng Việt Nam đã xây dựng được một mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết và ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ xâm lược. Mặt trận đó bao gồm: các nước xã hội chủ nghĩa, các nước độc lập dân tộc, các lực lượng yêu chuộng hoà bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới, trong đó có cả một bộ phận nhân dân Mỹ. Lịch sử cho thấy, thực hiện đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ này, đã tăng thêm sức mạnh cả về vật chất và tinh thần cho người Việt Nam đánh thắng Mỹ, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc của mình.
3. Trong bản báo cáo trình bày tại Hội nghị các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở nước ngoài, họp năm 1944 tại Liễu Châu (Quảng Châu, Trung Quốc), Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa quan trọng của việc kết hợp yếu tố sức mạnh dân tộc với sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài, Người nói: “Không có một sức mạnh thống nhất của cả nước, không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài, công cuộc vận động giải phóng khó mà thành công được” (14) .
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, vấn đề quan trọng hàng đầu tạo cơ sở cho đoàn kết quốc tế là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về đất nước và con người Việt Nam “Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh”; “dân Việt Nam ta đủ tư cách độc lập, tự do” (15). Và, phải khôn khéo, phải chủ động, tích cực; phải tự lực cánh sinh, phải lấy sức ta mà giải phóng cho ta “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Người nói: “Sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” (16) . Trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh không tuyệt đối hoá yếu tố khách quan - yếu tố quốc tế (tránh được sự rập khuôn, máy móc, sự ỷ lại bên ngoài); đồng thời Người cũng không tuyệt đối hoá yếu tố chủ quan - yếu tố dân tộc (tránh được sự biệt lập, cô lập). Người coi yếu tố quốc tế có ý nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng; nhưng yếu tố độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường luôn giữ vai trò quyết định mọi thắng lợi. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, tự chủ luôn luôn là nền tảng vững chắc để đoàn kết, tập hợp các lực lượng quốc tế ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Cũng tức là, muốn đoàn kết, hợp tác quốc tế hiệu quả, bền vững phải có thực lực làm cơ sở, do đó việc xây dựng thực lực về chính trị, kinh tế, quân sự của đất nước - sức mạnh nội lực, là nhân tố quyết định sự thành công của đoàn kết, hợp tác quốc tế. Hồ Chí Minh từng nói: “Phải trông ở thực lực, thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi, thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” (17) .
Quan điểm độc lập tự chủ, gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế của Hồ Chí Minh được phản ánh rõ nét trong phương châm đối ngoại của Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ. Đó là phương châm chủ động, tích cực, tự lực cánh sinh; lấy sức ta mà giải phóng cho ta; và, “Ta có mạnh thì họ mới đếm xỉa đến. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dẫu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy” (18) .
Thực hiện phương châm nói trên, trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mặc dù nhân dân Việt Nam phải đương đầu với các thế lực xâm lược có sức mạnh vật chất hơn mình gấp nhiều lần, nhưng nhờ phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh đoàn kết quốc tế, trong đó dựa vào sức mạnh dân tộc là chủ yếu, nên đã giành được những tháng lợi to lớn. “Việt Nam đã thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ bằng sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại. Việt Nam đã thắng nhờ biết lấy thành quả của kháng chiến để mở rộng và tăng cường đoàn kết quốc tế; và sự đoàn kết và sự ủng hộ của quốc tế đến lượt nó đã trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam”(19).
4. Xuất phát từ giá trị tư tưởng, giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh, thời kỳ đổi mới (từ năm 1986), trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá VI đến khoá X, đều nhấn mạnh vị trí và vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh (trong đó, tư tưởng về độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế là một bộ phận) đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đặt ra yêu cầu phải kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh(20); Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, khẳng định: “trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc”(21); Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001), viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta”(22); Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X (4-2006) viết: "Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua khẳng định rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta"(23) .
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế, hoạt động đối ngoại Việt Nam đã được triển khai theo định hướng:
Một là, trên cơ sở mục tiêu nhất quán là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, linh hoạt điều chỉnh mục tiêu đối ngoại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và thích ứng với xu thế quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong cộng đồng quốc tế;
Hai là, chủ động, tích cực mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác phát triển với tất cả các nước vì hoà bình, độc lập và phát triển;
Ba là, quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính làm nền tảng để quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hoá, đa phương hoá mang lại hiệu quả cao, bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc.
Qua gần 25 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn:
Thứ nhất, tạo được sự chuyển biến quan trọng từ hình thái hai phe đối đầu, thù địch của thời kỳ chiến tranh lạnh sang hình thái hợp tác và đấu tranh cùng tồn tại hoà bình với các nước láng giềng, khu vực; cải thiện căn bản mối quan hệ với các nước lớn có mặc cảm lịch sử với Việt Nam; xác lập môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, phá được thế bị bao vây, cô lập; mở rộng hợp tác và tham gia tích cực đời sống cộng đồng quốc tế”, góp phần ổn định chính trị và an ninh quốc gia, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế;
Thứ ba, mở ra vận hội để nước ta tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị và văn hoá, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Như vậy, giá trị lịch sử của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế không chỉ được phản ánh trong đường lối cách mạng của Việt Nam, mà còn là kim chỉ nam cho hoạt thực tiễn đối ngoại của Nhà nước Việt Nam. Và thực tiễn cũng chứng minh, những giá trị lịch sử đó đã được khẳng định không chỉ qua thành công của sự nghiệp kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mà cả trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng một nước Việt Nam - Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh./.
PGS,TS. Đinh Xuân Lý
Đại học Quốc gia Hà Nội
-----------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB. Chớnh trị quốc gia, H. 2002, T5, tr136
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.499
(3) Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam: Hội nghị khoa học nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, H.1981, tr32.
(4) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, NXB Sự thât, H. 1986, tr14.
(5) Một số nhà cách mạng Việt Nam trước khi xuất dương đã quyên góp được một số tiền làm lộ phí và khi ra nước ngài thì liên hệ với các cá nhân tầng lớp trên để tìm sự giúp đỡ
(6) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, NXB Sự thât, H. 1986, tr14).
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, T1, H. 1995, tr465.
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.301.
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.605.
(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.220.
(11) Nguyễn Duy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2002, tr138
(12) Việt Nam đã tham gia Đại hội Hoà bình thế giới ở Vacsava (11-1951); Đại hội Hoà bình thế giới ở Viên (11-1951); Hội nghị châu á - Thái Bình Dương vì hoà bình ở Bắc Kinh (10-1952). Từ các diễn đàn này Việt Nam đã mở rộng được ảnh hưởng của mình.
(13) Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tr268-269.
(14) Hồ Chi Minh: Toàn tập, T3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.452
(15), (17) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.418,126
(16) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.522
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chớnh trị quốc gia, H. 1998, tập 7, tr244.
(19) Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tr268.
(20) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr125.
(21) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H. 1991, tr53, tr127.
(22) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2001, tr84.
(23) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2006, tr6-7.