Thứ Năm, 7/11/2024
Tuyên truyền
Thứ Ba, 25/5/2010 10:45'(GMT+7)

Một số điểm mới trong Dự thảo Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng

Dự thảo Cương lĩnh lần này bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991 ở tất cả 12 điểm trong 4 mục, nhưng dưới đây xin trình bày những bổ sung phát triển mới quan trọng.

1. Về tên gọi Cương lĩnh:

Hội nghị Trung ương 12 khoá X đã nhất trí với tên gọi: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh này là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, không nên và không cần phải thay đổi. Chỉ bổ sung thêm phần ghi trong ngoặc (bổ sung, phát triển năm 2011). Tương tự như cách gọi: “Cương lĩnh năm 1930”, “Cương lĩnh năm 1991”, “Hiến pháp năm 1946”, “Hiến pháp năm 1980”, “Hiến pháp năm 1992” “Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001)”.

2. Về đánh giá khái quát quá trình cách mạng Việt Nam

Cương lĩnh năm 1991 đánh giá khái quát quá trình cách mạng trong hơn 60 năm. Đến nay quá trình cách mạng nước ta đã hơn 80 năm. Kế thừa đánh giá của Cương lĩnh năm 1991, của các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới, nhất là của Đại hội IX, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2001) viết: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới; tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, đưa nước ta tiếp tục từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam”.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) khẳng định: “Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới”.

Đánh giá tổng quát như trên đã thể hiện một cách cô đọng, khái quát hơn so với Cương lĩnh năm 1991, bảo đảm trung thực với lịch sử, đề cao niềm tự hào dân tộc, đồng thời phù hợp với yêu cầu đối ngoại.

3. Về bối cảnh quốc tế

Bối cảnh quốc tế hiện nay và trong vài thập kỷ tới khác rất nhiều so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Các đại hội Đảng gần đây, nhất là Đại hội X đã dự báo bối cảnh quốc tế. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) kế thừa những nội dung còn giá trị trong Cương lĩnh năm 1991, những dự báo trong các văn kiện Đảng đã viết gọn hơn theo hướng không đi sâu vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, như về nguyên nhân sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (trước đây) và Đông Âu, cân nhắc đánh giá, nhận định đúng mức hơn về chủ nghĩa tư bản.

Điểm mới nhất trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) về bối cảnh quốc tế, là nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại. Cương lĩnh năm 1991 viết: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”. Căn cứ vào thực tiễn tình hình thế giới từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đến nay, vào quá trình toàn cầu hoá, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

4. Về mô hình, mục tiêu, phương hướng

Một là, về mô hình xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”

Đến Đại hội X, Đảng ta bổ sung thêm 2 nội dung (thường gọi là “đặc trưng”) mới:

(1) Đưa mục tiêu được xác định ở Đại hội VIII và được bổ sung ở Đại hội IX “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thành đặc trưng tổng quát; (2) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đại hội X còn bổ sung, phát triển ở một số đặc trưng.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.

So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) có một số điểm mới sau:

(1) Bổ sung thêm hai “đặc trưng”: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và ; “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai “đặc trưng” này Đại hội X đã bổ sung nhưng điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng”, bởi cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định có dân chủ thì mới có công bằng, văn minh, đồng thời để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

(2) Tiếp tục bổ sung, phát triển nội dung một số đặc trưng:

- “Đặc trưng” về con người: Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Đại hội X bỏ từ “bóc lột” và thay cụm từ “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” bằng cụm từ “phát triển toàn diện”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) bỏ tiếp cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” và thêm cụm từ “có điều kiện” vào trước cụm từ “phát triển toàn diện” thành: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xác định như thế là chính xác, vì đây là nói mục tiêu đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội.

- Bổ sung, phát triển “đặc trưng” về dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đại hội X thêm từ “tương trợ” sau từ “đoàn kết”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) thay từ “tương trợ” bằng từ “tôn trọng” và thay từ “tiến bộ” bằng từ “phát triển”. Vì vấn đề đặt ra là các dân tộc tôn trọng nhau và không chỉ giúp nhau cùng tiến bộ mà giúp nhau cùng phát triển? Dự thảo viết như sau: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

(3) Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội X đặc trưng về “Do nhân dân làm chủ”.

Ngoài ra có một đặc trưng cần bàn đến, đó là đặc trưng về kinh tế: Cương lĩnh năm 1991 xác định “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội X xác định: “có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Thật ra, việc xác định như Đại hội X cũng không mâu thuẫn với Cương lĩnh năm 1991. Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất hiện đại phải là quan hệ sản xuất có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là cách viết “mềm mại”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Vì đây là nói mục tiêu khi đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội; cần phải khẳng định rõ để có hướng chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, kiên trì phấn đấu thực hiện từng bước trong suốt thời kỳ quá độ.

Hai là, về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong thời gian rất dài, chưa thể xác định cụ thể mốc thời gian kết thúc, vì thế trong Cương lĩnh chỉ nêu mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ XXI.

Về mục tiêu tổng quát, Dự thảo viết: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh”. So với Cương lĩnh năm 1991, có điều chỉnh một vài từ (bỏ cụm từ “phải đạt tới”, thêm cụm từ “ở nước ta”, dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh tế”; thêm từ “ngày càng” vào trước từ “phồn vinh” thành “ngày càng phồn vinh”. Viết như vậy vừa thể hiện rõ quá trình phát triển, vừa có ý nghĩa động viên phấn đấu vì một xã hội tương lai tốt đẹp.

- Về mục tiêu của chặng đường sắp tới, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) chỉ nêu mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (mục tiêu đến 2020 các Đại hội VIII, IX, X đã xác định và ghi trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020).

Ba là, về các phương hướng cơ bản.

Cương lĩnh năm 1991 xác định, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững bẩy phương hướng cơ bản. Nội dung của bẩy phương hướng có rất nhiều nội dung trùng lắp với những nội dung được đề cập ở mục III. Những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Để khắc phục sự trùng lắp, Đại hội X đã viết rất khái quát. Kế thừa cách diễn đạt của Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết: “Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:

- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.

- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.

- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.

Để thực hiện đúng các phương hướng cơ bản trên, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) còn bổ sung một đoạn nói về việc nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn. Dự thảo viết: “Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn như: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.

5. Về định hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Cương lĩnh năm 1991 xác định: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cá thể còn có  phạm vi tương đối lớn. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do pháp luật quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức…

Kế thừa các định hướng trên, và sự bổ sung, phát triển qua các nhiệm kỳ Đại hội VIII, IX, X, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển…

Về vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế , trong quá trình xây dựng dự thảo có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, không nên xác định thành phần kinh tế nào là chủ đạo, là nền tảng. Có ý kiến đề nghị chỉ cần nêu “kinh tế nhà nước là chủ đạo”. Tại Hội nghị Trung ương 12, trong Bản giải trình, Bộ Chính trị đề nghị: việc xác định vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là vấn đề rất hệ trọng, liên quan đến đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, đã được thảo luận nhiều và được đa số tán thành. Cương lĩnh này là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; những định hướng lớn về thành phần kinh tế và vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là lâu dài đến khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy cần khẳng định được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.

6. Về định hướng phát triển quốc phòng, an ninh

- Về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Dự thảo viết: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) đã xác định đầy đủ hơn, chính xác hơn mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Sự phát triển này đã được xác định ở văn kiện Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX và Văn kiện Đại hội X.

- Cương lĩnh năm 1991 mới đề cập đến “Phát triển đường lối và nghệ thuật quân sự, chiến tranh nhân dân”, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) đã bổ sung thêm “lý luận, khoa học an ninh” thành “phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh”.

- Cương lĩnh năm 1991 mới đề cập đến “kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) xác định sự kết hợp này không chỉ trong các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội mà cả trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội”.

- Cương lĩnh năm 1991 xác định “từng bước xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang, trong đó có công an nhân dân được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”. Dự thảo Cương lĩnh đã bổ sung, phát triển thành “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”.

- Về phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, Cương lĩnh năm 1991 viết: “Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với số quân thích hợp theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ”, “xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự là một lực lượng vũ trang chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ”. Viết như trên chưa thật chính xác và trùng lắp. Dự thảo viết: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”.

- Cương lĩnh năm 1991 mới viết: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an nhân dân”, Dự thảo viết: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng – an ninh”.

7. Định hướng về đối ngoại

- Cương lĩnh năm 1991 xác định “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Dự thảo đã bổ sung, phát triển thành: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

- Cương lĩnh năm 1991 viết: “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”. Viết như thế chưa chính xác, chặt chẽ, vì sự hợp tác không chỉ dựa trên những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình mà phải trên cơ sở những nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp quốc và Luật pháp quốc tế. Do đó, Dự thảo viết “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và Luật pháp quốc tế”.

- Cương lĩnh năm 1991 viết: “Phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Áá, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hoà bình và hợp tác”. Mục tiêu lớn hơn là ổn định và phát triển phồn vinh. Vì thế, Dự thảo viết: “Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”.v.v…

8. Về Đảng Cộng sản Việt Nam

- Kế thừa cách diễn đạt về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam của Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.

- Về nền tảng tư tưởng của Đảng: Đại hội IX đã chỉ rõ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ban Bí thư khoá IX phát động Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Bộ Chính trị khoá X phát động Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xuất phát từ vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, Dự thảo đã viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.

- Về phương thức lãnh đạo của Đảng, Dự thảo bổ sung thêm: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ” và “Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”. Thay từ “chủ trương công tác” bằng từ “chủ trương lớn” thành “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn”./.
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất