HỖ TRỢ KỊP THỜI NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ DOANH NGHIỆP
Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) của 63 tỉnh, thành phố, đến tháng 12/2021, tổng kinh phí thực hiện Nghị quyết 68, Quyết định 23 quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên toàn quốc là 30,93 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ 27,05 triệu lượt đối tượng (gồm 377.927 lượt đơn vị sử dụng lao động, 26,68 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác). Riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ 8,84 triệu lượt đối tượng với số tiền 12,15 nghìn tỷ đồng. Một số địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ cao là Bình Dương (2.917 tỷ đồng), Hà Nội (2.260 tỷ đồng), Đồng Nai (2.568 tỷ đồng), Bà Rịa - Vũng Tàu (1.607 tỷ đồng), Bắc Giang (708 tỷ đồng), Long An (716 tỷ đồng).
Đối với nhóm chính sách về bảo hiểm, tổng kinh phí hỗ trợ 3 chính sách về bảo hiểm là 5,43 nghìn tỷ đồng (tương đương 32,6% kế hoạch dự toán) hỗ trợ cho 375.853 đơn vị sử dụng lao động và 11,39 triệu người lao động. Cơ quan bảo hiểm xã hội đã rà soát và thông báo cho 375.000 đơn vị sử dụng lao động với 11.238.000 người lao động được giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ tháng 7/2021 đến hết tháng 6/2022 với tổng số tiền (tạm tính) khoảng 4.322 tỷ đồng.
Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đã được thực hiện tại 57/63 tỉnh, thành phố với tổng số 841 đơn vị sử dụng lao động và 159.881 người lao động, tổng kinh phí 1.111,3 tỷ đồng.
Cơ quan bảo hiểm xã hội đã xác nhận cho 4.102 lao động tại 41 đơn vị sử dụng lao động để làm hồ sơ đề nghị hỗ trợ đào tạo nghề. Tại 7 tỉnh, thành phố, 12 đơn vị sử dụng lao động được phê duyệt hỗ trợ 2,96 tỷ đồng để đào tạo nghề, duy trì việc làm cho 1.033 người lao động. Cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp đã xác nhận danh sách cho 2,87 triệu người lao động của 69.456 đơn vị sử dụng lao động để đề nghị hưởng các chính sách hỗ trợ tại 63 tỉnh, thành phố.
Đối với nhóm chính sách cho vay vốn, ngân hàng Chính sách xã hội đã phê duyệt hồ sơ cho 2.084 lượt người sử dụng lao động vay vốn 1.596,1 tỷ đồng để trả lương cho 428.402 lượt người lao động. Đã giải ngân 1.589 tỷ đồng (tương đương 21,3% kế hoạch dự toán) hỗ trợ 2.074 lượt người sử dụng lao động vay vốn để trả lương cho 426.294 lượt người lao động. Trong tổng số người sử dụng lao động được hỗ trợ vay vốn, số đơn vị sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc chiếm 60%; số người sử dụng lao động vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất sau khi tạm dừng hoạt động chiếm 26,6%; vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên chiếm 13,4%. Một số địa phương có tổng kinh phí giải ngân cao là Bắc Giang (380,5 tỷ đồng), Đồng Nai (210,2 tỷ đồng), Thành phố Hồ Chí Minh (163,9 tỷ đồng), Hà Nội (110 tỷ đồng), Cần Thơ (106,8 tỷ đồng), Bắc Ninh (99 tỷ đồng), Bình Dương (88,5 tỷ đồng).
Tính đến tháng 11/2021, Bộ LĐTBXH đã trình Thủ tướng Chính phủ xuất cấp 6.343,095 tấn gạo hỗ trợ 422.873 người (115.538 hộ) thiếu đói dịp giáp hạt; hỗ trợ 739,86 tấn gạo cứu đói cho 12.957 hộ với 49.324 nhân khẩu thiếu đói do thiếu đất lúa sản xuất vụ hè thu năm 2021. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xuất cấp 141.971,19 tấn gạo hỗ trợ cho 9.464.746 người (2.412.311 hộ) thiếu đói do đại dịch COVID-19.
Với trọng trách đảm bảo an sinh xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021; Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Theo đó, các nhóm chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ bằng tiền, vay vốn, an sinh xã hội trong nghị quyết đã được triển khai thực hiện quyết liệt và đồng bộ. |
PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Để hỗ trợ và phục hồi thị trường lao động, Bộ LĐTBXH vừa ban hành Quyết định số 1405/QĐ-LĐTBXH về việc ban hành Chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động. Mục tiêu là duy trì tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%, tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn dưới 2%. Quyết định 1405 được ban hành nhằm hỗ trợ người làm động làm việc tại các doanh nghiệp thuộc vùng kinh tế trọng điểm, các địa phương có các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao yên tâm làm việc, tham gia phục hồi sản xuất kinh doanh, đặc biệt hỗ trợ để thu hút người lao động ngoại tỉnh quay lại làm việc.
Thời gian qua, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhiều người lao động, nhất là tại các tỉnh, thành phố phía Nam giãn cách xã hội, bị mất việc. Nhằm tạo việc làm tốt, thu nhập bền vững, cũng như đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng lao động, Quyết định 1405 hỗ trợ xây dựng, phát triển các mô hình sản xuất an toàn, đồng thời thiết lập hệ thống thông tin, dữ liệu kịp thời phục vụ kết nối cung - cầu lao động. Theo đó sẽ có 6 nhiệm vụ chính được đề ra, đó là:
Thứ nhất, Bộ LĐTBXH sẽ nghiên cứu xây dựng và tổ chức triển khai các chính sách hỗ trợ người lao động, đảm bảo an sinh xã hội, thu hút người lao động quay trở lại làm việc.
Thứ hai, sẽ hỗ trợ người sử dụng lao động phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động. Cụ thể, Bộ LĐTBXH sẽ hướng dẫn người sử dụng lao động về các cơ chế vay tiền để trả lương theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg; hỗ trợ vay vốn tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm; không áp dụng giới hạn số giờ làm thêm trong 1 tháng; chi phí tuyển dụng lao động thông qua trung tâm dịch vụ việc làm; hỗ trợ đưa người Việt Nam ra nước ngoài làm việc; đào tạo trực tiếp cho lao động địa phương phù hợp với diễn biến của dịch bệnh; bổ sung thêm nguồn vốn vào Quỹ Quốc gia về việc làm.
Thứ ba, tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển thị trường lao động với 4 hướng giải pháp chính là: Tập trung đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề cơ bản cho người lao động để kịp thời cung ứng cho doanh nghiệp, hoặc vùng kinh tế trọng điểm; nâng cao chất lượng nguồn cung lao động; Chuyển đổi số và dạy học trực tiếp trong giáo dục nghề nghiệp; đầu tư vào các trường chất lượng cao.
Thứ tư, tổ chức kết nối cung - cầu lao động, trên cơ sở nắm chắc diễn biến của cung - cầu lao động, cả về số lượng, ngành nghề, trình độ. Trong đó, nhiệm vụ kết nối cung - cầu lao động sẽ được thực hiện thông qua việc tăng tần suất tổ chức các phiên giao dịch việc làm; đa dạng hóa các hình thức, chuyên đề của các phiên; tổ chức phiên giao dịch việc làm trực tuyến trong vùng hoặc toàn quốc.
Thứ năm, sẽ phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, lành mạnh và ổn định nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 là cơ sở để Bộ hoàn thiện các quy định về lao động, việc làm, tạo hành lang pháp lý cho thị trường phục hồi trong trạng thái bình thường mới. Trong đó, Bộ LĐTBXH sẽ sửa đổi, bổ sung các Luật Việc làm, Luật An toàn vệ sinh lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục nghề nghiệp. Trên quan điểm ứng dụng nền tảng công nghệ số sẽ xây dựng dữ liệu về lao động, việc làm và chia sẻ với các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo hiểm xã hội, đăng ký doanh nghiệp để quản lý, nhằm thực hiện chính xác, kịp thời các chính sách. Bên cạnh đó, các trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động hiệu quả, hoặc nằm trong trọng điểm đầu tư sẽ được ưu tiên, để vừa hình thành mạng lưới thông tin thị trường, vừa quản lý, điều tiết thị trường.
Tính đến 20/12/2021 triển khai Nghị quyết số 68/NQ-CP tổng số kinh phí thực hiện trên 31,69 nghìn tỷ đồng, riêng Thành phố Hồ Chí Minh có trên 8,85 triệu lượt đối tượng đã được hỗ trợ với số tiền 12,24 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, một số địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ cao là Bình Dương (trên 3.100 tỷ đồng), Đồng Nai (trên 2.700 tỷ đồng), Hà Nội (trên 2.300 tỷ đồng), Bà Rịa - Vũng Tàu (trên 1.600 tỷ đồng), Bắc Giang (trên 730 tỷ đồng)… |
Thứ sáu, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ lao động, hòa giải viên, trọng tài viên để giải quyết kịp thời tranh chấp lao động và đình công. Ngoài ra, quan hệ lao động trong doanh nghiệp cũng sẽ được chủ động nắm bắt.
Để việc thực hiện Quyết định số 1405 hiệu quả, Bộ LĐTBXH đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở LĐTBXH thực hiện gấp 7 nhiệm vụ trọng tâm như sau: Một là, xây dựng phương án với các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để phục hồi kinh tế, tạo việc làm. Hai là, nắm chắc nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn; nhu cầu tìm việc của người lao động để tránh thiếu hụt cục bộ, nhất là thời điểm cuối năm và Tết Nguyên đán. Ba là, nghiên cứu chính sách giúp doanh nghiệp, người sử dụng lao động giữ chân người lao động để yên tâm làm việc. Bốn là, giới thiệu, tạo việc làm ổn định cho người lao động trở về từ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trọng điểm phía Nam. Năm là, tăng cường, đa dạng hóa hình thức tổ chức các phiên giao dịch việc làm để kết nối cung - cầu lao động. Sáu là, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các biện pháp phục hồi sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm. Bảy là, định kỳ trước ngày 15 tháng đầu tiên của Quý, gửi báo cáo tình hình, kết quả thực hiện các giải pháp hỗ trợ phục hồi, phát triển thị trường lao động.
ĐẨY MẠNH THU HÚT THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI
Bên cạnh chính sách giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn vay, để cho chính sách an sinh xã hội thêm bền vững, Bộ LĐTBXH đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung các giải pháp:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền về tính ưu việt của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội tự nguyện, nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp về chính sách bảo hiểm.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội kể cả bắt buộc và tự nguyện. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cần quan tâm đến việc hỗ trợ về đào tạo nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, kết nối cung - cầu để sớm đưa người lao động trở lại thị trường lao động. Cụ thể, việc thiết kế chính sách bảo hiểm xã hội kể cả bắt buộc và tự nguyện cần linh hoạt đối với các điều kiện tham gia, thụ hưởng chính sách nhằm hấp dẫn hơn để thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là chính sách an sinh xã hội chủ động và bền vững nhất, tiến tới bảo hiểm xã hội toàn dân, tức là mọi người lao động và người có thu nhập đều tham gia bảo hiểm xã hội.
Tăng cường chế tài xử lý nghiêm các hành vi trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội để khắc phục tình trạng trốn đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội hiện nay. Xem các hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội và chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động là tội hình sự để nâng cao hiệu lực xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội. Đảm bảo việc cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội, cần tính toán tiền lương đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng nên thực hiện theo mức tiền ghi trong hợp đồng lao động nhằm đảm bảo việc đóng và hưởng sau này của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Đồng thời xem xét việc điều chỉnh mức tiền lương hưu hưởng hằng tháng theo một lộ trình phù hợp để khắc phục tình trạng mất cân đối trong đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội lâu dài.
Trong 12 nhóm chính sách của Nghị quyết 68/NQ-CP, tổng kinh phí hỗ trợ 3 nhóm chính sách về bảo hiểm xã hội đã chi đạt 5,43 nghìn tỷ đồng và hướng tới hỗ trợ cho 375.854 đơn vị sử dụng lao động và 11,39 triệu người lao động. Cơ quan bảo hiểm xã hội đã rà soát và thông báo cho 375.000 đơn vị sử dụng lao động với hơn 11,2 triệu người lao động được giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ tháng 7/2021 đến hết tháng 6/2022 với tổng số tiền khoảng 4.322 tỷ đồng. |
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp trong thực hiện và tuyên truyền về chính sách bảo hiểm xã hội như: sự phối hợp với các tổ chức công đoàn, hội phụ nữ, liên minh hợp tác xã, đoàn thanh niên,… cùng với sự quan tâm của các cấp, các ngành để tạo sự đồng thuận, đồng bộ trong quá trình đưa chính sách bảo hiểm xã hội đến mọi người dân, người lao động, doanh nghiệp.
Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác dự báo nhu cầu tham gia, đánh giá khả năng tham gia của người lao động nói riêng và người dân nói chung để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách có liên quan ngày một phù hợp hơn và hấp dẫn người dân trong việc tham gia bảo hiểm xã hội. Việc thiết kế chính sách về đối tượng, mức đóng, chế độ hưởng… cũng cần linh hoạt hơn.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, chia sẻ cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong việc giải quyết chế độ. Đồng bộ hóa và có hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia để quản lý, theo dõi, giám sát cũng như thiết kế chính sách bảo hiểm xã hội. Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo sự đồng bộ, toàn diện trong các khâu thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội./.
Trọng Phúc