Thứ Ba, 7/5/2024
Nhịp cầu Công Thương
Thứ Sáu, 20/10/2023 8:55'(GMT+7)

Đảm bảo chuỗi cung ứng năng lượng cuối năm 2023 và năm 2024

Không để đứt gãy nguồn cung xăng dầu ở mọi phân khúc

Không để đứt gãy nguồn cung xăng dầu ở mọi phân khúc

Nỗ lực đảm bảo than cho điện

Báo cáo với Bộ trưởng Bộ Công Thương tại buổi làm việc về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, nhất là cung ứng điện, dầu khí, xăng dầu và than các tháng cuối năm 2023, năm 2024 và các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường hợp tác giữa các Tập đoàn, Tổng công ty ngày 22/8 vừa qua, lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết, kế hoạch năm 2024, dự kiến TKV và Tổng công ty Đông Bắc cung cấp than cho điện là 56,48 triệu tấn, trong đó TKV cấp hoảng 46,48 triệu tấn và Tổng công ty Đông Bắc khoảng 10 triệu tấn). Đối với các nhà máy EVN, TKV cung cấp 20,35 triệu tấn, Tổng công ty Đông Bắc cung cấp 8,35 triệu tấn.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty đảm bảo cung ứng đủ năng lượng trong mọi tình huống.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty đảm bảo cung ứng đủ năng lượng trong mọi tình huống.

Ông Ngô Hoàng Ngân – Chủ tịch Hội đồng thành viên TKV cho biết: Kế hoạch cung cấp than cho Điện năm 2024 sẽ được triển khai thực hiện theo chỉ đạo và các giải pháp theo văn bản số 745/TTg-CN ngày 15/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch đảm bảo cung ứng điện các tháng cuối năm 2023 và năm 2024 và Thông báo Kết luận của Bộ trưởng Bộ Công Thương và Chủ tịch Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tại buổi làm việc với các Tập đoàn EVN, PVN, TKV ( tại văn bản số 35/TB-BCT ngày 3/3/2023 của Bộ Công Thương).

Cũng theo TKV, để có đủ nguồn cung ứng 46,48 triệu tấn than cho Điện trong đó có 31 triệu tấn than pha trộn giữa than trong nước và than nhập khẩu, TKV dự kiến sẽ cần nhập khẩu khoảng 17 triệu tấn than.

Hiện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), TKV và Tổng công ty Đông Bắc đang tiến hành thảo luận để đi đến ký kết thỏa huận Hợp tác cung cấp than dài hạn dự kiến sẽ thực hiện từ năm 2024 trở đi đến hết thời gian vận hành nhà máy.

Lãnh đạo EVN cho biết, việc đảm bảo cung cấp than cho phát điện, sự cố các nhà máy nhiệt điện được khắc phục dần, nước về các hồ chứa thủy điện được cải thiện có thể nhận định công tác cung ứng điện trong các tháng còn lại của năm 2023 về cơ bản sẽ được đảm bảo, đáp ứng đủ điện cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân, tuy ở một số thời điểm công suất dự phòng ở miền Bắc ở mức thấp do bố trí lịch sửa chữa các nhà máy nhiệt điện.

Sẵn sàng 2 kịch bản cấp điện


Để đảm bảo cân đối cung – cầu điện năm 2024, EVN đã tính toán cân đối cung – cầu điện với nhu cầu điện tăng trưởng 8,96% so với năm 2023 và 2 kịch bản lưu lượng nước về các hồ thủy điện.

EVN đề nghị được phép tích nước các hồ thủy điện miền Bắc sớm ngay từ tháng 8/2023

EVN đề nghị được phép tích nước các hồ thủy điện miền Bắc sớm ngay từ tháng 8/2023

Kịch bản 1: Nước về các hồ thủy điện ở mức bình thường ( tương ứng tần suất 65%)

Kịch bản 2: Cực đoan ( lưu lượng nước về kém như đã diễn ra trong năm 2023 tương ứng tấn suất khoảng 90%).

Trong kịch bản lưu lượng nước về các hồ thủy điện bình thường, hệ thống điện quốc gia về cơ bản đáp ứgn cung ứng điện, tuy nhiên do công suất dự phòng của hệ thống điện miền Bắc thấp nên vẫn phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về công suất đỉnh tại một số thời điểm trong ngày của các tháng nắng nóng.

Trường hợp lưu lượng nước về cực đoan như mùa khô năm 2023, việc đảm bảo cung cấp điện đặc biệt đối với khu vực miền Bắc sẽ gặp khó khăn hơn, có thể xuất hiện tình trạng thiếu công suất (khoảng 420 đến khoảng 1.770MW) trong một số giờ cao điểm của tháng 6 và 7 năm 2024. Khi đó cần thực hiện dịch chuyển biểu đồ sử dụng điện hàng ngày của một số khách hàng sử dụng nhiều điện năng sang thời điểm ngoài cao điểm.

EVN đang tập trung vào các giải pháp như: Đảm bảo độ khả dụng, sẵn sàng của các nhà máy thuộc EVN và các đơn vị thành viên (hiện chiếm 37,7% công suất lắp đặt của hệ thống); hạn chế tối đa sự cố các nhà máy, đặc biệt là các tổ máy nhiệt điện than miền Bắc; tổ chức thực hiện ngay các giải pháp khắc phục tình trạng suy giảm công suất các tổ máy do yếu tố nhiệt độ môi trường, nước làm mát, thủy triều thấp; làm việc với TKV, TCT Đông Bắc và PVN/PVGas để đảm bảo đủ nhiên liệu cho sản xuất điện theo nhu cầu của hệ thống; lập lịch huy động cao các nhà máy nhiệt điện ngay từ đầu năm 2024 để điều tiết, giữ mực nước các hồ thủy điện ở mức cao để đạt công suất thiết (nhất là khu vực miền Bắc) ở thời điểm cuối mùa khô năm 2024 một cách tối ưu theo quy định.

Đồng thời, EVN cũng đề nghị Ban chỉ đạo Phòng chống Thiên tai Trung ương cho phép tích nước các hồ thủy điện miền Bắc sớm ngay từ tháng 8/2023 với mục tiêu tích đầy hồ vào cuối năm 2023. Tiếp tục phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố để triển khai thực hiện Chỉ thị số 20/CT-TTg về tiết kiệm điện; tập trung nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ các công trình lưới điện phục vụ giải tỏa công suất các nguồn điện và đảm bảo cấp điện trong năm 2024- 2025, đặc biệt là 4 dự án 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch đến Phố Nối, các công trình phục vụ nhập khẩu điện từ Lào theo Hiệp định liên Chính phủ (ĐZ 220kV Nậm Sum - Nông Cống và ĐZ 500kV Monsoon – Thạnh Mỹ)…cũng như đôn đốc các Chủ đầu tư các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp khẩn trương hoàn thiện các thủ tục pháp lý để sớm đưa các dự án vào vận hành thương mại.

Cũng theo EVN, theo tính toán cung cầu năng lượng giai đoạn 2024-2030, dự kiến các nhà máy của EVN sẽ được huy động rất cao khoảng 40-42 tỷ kWh/năm, tương ứng với khối lượng than là 27,2-28 triệu tấn, vượt quá khả năng cấp trong hợp đồng dài hạn. Do đó, cần phải bổ sung thêm than cho vận hành các nhà máy điện than hiện hữu, đáp ứng nhu cầu huy động trong các năm năm giai đoạn 2024-2030.

Tổng giám đốc EVN Trần Đình Nhân cho biết: Để đảm bảo nhiên liệu than năm 2024 và các năm tiếp theo, hiện nay EVN đang làm việc với TKV và Tổng công ty Đông Bắc- đây là 2 tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nước có nhiều kinh nghiệm chuyên sâu về nhập khẩu than,tiềm lực tài chính lớn..đảm bảo cung cấp toàn bộ than cho sản xuất điện của các nhà máy sử dụng than antraxit của EVN và các EVNGENCO từ 1/1/2024 đảm bảo đủ nhu cầu vận hành và chất lượng theo yêu cầu của bên mua. Qua đó nâng tổng khối lượng than cung cấp hàng năm trong hợp đồng dài hạn hiện hữu lên khoảng 27-28 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu huy động trong thời gian tới.

Liên quan đến tình hình cung cấp khí, theo báo cáo của EVN, trong các năm vừa qua, khả năng cấp khí Đông Nam Bộ của PVN/PVgas cho phát điện đang suy giảm mạnh từ năm 2020 trở đi, trong đó năm 2020 khả năng cấp chỉ khoảng 6 tỷ m3 đến năm 2023 khả năng cấp chỉ còn 4,3 tỷ m3, khả năng cấp khí cho khu vực Tây Nam Bộ ổn định trong khoảng 1,3-1,4 tỷ m3/năm.

Ngày 11/7/2023 PVGAs đã có văn bản 1083/KVN-HĐK về việc cấp khí LNG cho các nhà máy điện tại khu vực Đông Nam Bộ , theo đó Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) dự kiến khả năng cấp khí thiên nhiên khu vực Đông Nam Bộ năm 2024 ở mức 3,06 tỷ m3, năm 2025 ở mức 2,61 tỷ m3.

Để đảm bảo nhiên liệu khí cho phát điện năm 2024 và các năm tiếp theo, đảm bảo tận dụng hạ tầng cung cấp khí hiện hữu sẵn có đáp ứng tiến độ và nhu cầu nhiên liệu khí cho phát điện, EVN kiến nghị Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ giao PVN là đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp nhiên liệu khí cho phát điện (bao gồm cả khí LNG khai thác trong nước và khí LNG nhập khẩu). Việc bổ sung khí LNG cho các nhà máy điện được thực hiện trên cơ sở đấu thầu lựa chọn các nhà cung cấp LNG, đảm bảo công khai, cạnh tranh minh bạch. Khí thiên nhiên được ưu tiên cung cấp cho các nhà máy điện, việc phân bổ khí cho các nhà máy điện sử dụng chung hạ tầng được thực hiện phân bổ đều trên tỷ trọng sử dụng đảm bảo bình đẳng và tính cạnh tranh trên thị trường. Sau khi được sự đồng ý của Thủ tướng, EVN sẽ triển khai ngay việc đàm phán bổ sung khí LNG để kịp tăng nguồn cung khí cho năm 2024.

Báo cáo tại cuộc họp, đại diện PVN cho biết, PVN đã xây dựng kế hoạch sản xuất điện, kế hoạch cung cấp khí trong năm 2024 dự kiến là 27,50 tỷ kWh. Về khả năng cung cấp khí cho phát điện theo từng lĩnh vực: Khu vực Đông Nam Bộ là 3,06 tỷ Sm3, khu vực Tây Nam Bộ là 1,41 tỷ Sm3.

Tại cuộc họp Tập đoàn EVN, TKV, PVN, Tổng công ty Đông Bắc, Petrolimex cũng nêu ra một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ và đề nghị Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp xem xét, giải quyết. Cụ thể như: TKV kiến nghị Bộ Công thương nghiên cứu xem xét để báo cáo đề xuất Chính phủ điều chỉnh, sửa đổi các nội dung liên quan đến Chỉ thị 29/CT-TTg ngày 1/12/2019 cho phù hợp với tình hình cung cấp than thực tế giữa EVN,TKV và Tổng công ty Đông Bắc…; EVN kiến nghị UBQLV Nhà nước tại doanh nghiệp sớm xem xét phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển năm 2023 của EVN cũng như đề nghị Bộ Công Thương chỉ đạo TKV, PVN cùng chủ đầu tư các nhà máy điện, đặc biệt nhiệt điện than miền Bắc đảm bảo độ khả dụng sẵn sàng và độ tin cậy của các tổ máy, chỉ đạo UBND các tỉnh khẩn trương tổ chức lựa chọn chủ đầu tư các nguồn điện quan trọng, ưu tiên đã có trong Quy hoạch điện VIII đặc biệt các dự án khu vực phía Bắc…; Về phía PVN cũng kiến Bộ Công Thương chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung hướng dẫn các quy trình, quy định tại TT25/2016/TT-BCT ngày 30/11/2016 và TT 45/2018/TT-BCT ngày 15/11/2018 và các quy trình có liên quan về lập kế hoạch vận hành, lập lịch huy động các nhà máy điện tiêu thụ khí Lô B…

Đảm bảo an ninh năng lượng trong mọi tình huống

Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, bảo đảm an ninh năng lượng, nhất là bảo đảm cung ứng điện, than, xăng dầu, khí đốt phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu.

Từ đầu năm đến nay, Chính phủ, Bộ Công Thương đã có nhiều cuộc làm việc với các Bộ, ngành có liên quan và các doanh nghiệp về lĩnh vực năng lượng; đã chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và đã được các Tập đoàn, Tổng Công ty triển khai thực hiện tương đối nghiêm túc, hiệu quả, góp phần cung ứng đầy đủ, liên tục và an toàn điện, than, xăng dầu, khí đốt cho thị trường và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, ở một số thời điểm nguồn cung về năng lượng chưa đảm bảo; việc cung ứng điện trong mùa khô vừa qua gặp nhiều khó khăn, có thời điểm đã phải điều hòa phụ tải và tiết giảm điện ở một số địa bàn, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và sinh hoạt của người dân.

Dự báo thời gian tới, thị trường thế giới về nguyên, nhiên liệu sơ cấp, đầu vào của sản xuất vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, trong khi nhu cầu sử dụng năng lượng được dự báo sẽ tiếp tục tăng cao theo diễn biến tăng trưởng kinh tế thế giới và trong nước; tình hình thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường.

Trong bối cảnh đó, để đạt được các mục tiêu, yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra, Bộ trưởng yêu cầu phải thực hiện ba nhiệm vụ chính đó là: Không được để thiếu điện, thiếu than, xăng dầu và khí đốt cho nền kinh tế trong mọi tình huống; các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong lĩnh vực năng lượng phả tăng cường hơn nữa sự hợp tác chia sẻ; các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương, UBQLV chịu trách nhiệm chính trong việc tham mưu chính sách, đôn đốc, kiể tra giám sát các DN, tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng trong việc tuân thủ pháp luậ cũng như thực hiện các chỉ đạo, điều hành của Chính phủ , Bộ Công thương và UBQLV.

Quyết liệt triển khai nhiệm vụ

Để thực hiện được các nhiệm vụ đó, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chỉ đạo, giao nhiệm vụ cụ thể đối với từng đơn vị, Tập đoàn, Tổng công ty.

Đối với Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN: Khắc phục triệt để những hư hỏng, sự cố các nhà máy, tổ máy (nhiệt điện, thủy điện) trong phạm vi quản lý, bảo đảm các nhà máy đủ khả năng hoạt động tối đa công suất. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng, hoàn thành các công trình dự án về nguồn, lưới điện truyền tải, không để chậm các dự án nguồn hòa lưới, các dự án truyển tải làm hạn chế năng lực giải tỏa công suất của các nhà máy. Khẩn trương đàm phán giá để huy động các dự án chuyển tiếp, cũng như đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán điện đối với các dự án điện khác theo quy định của pháp luật.

Tăng cường kiểm tra, giám sát và yêu các nhà máy trực thuộc bảo đảm đủ các nguyên, nhiên vật liệu để hoạt động theo quy định; tích cực hơn nữa trong việc tham mưu và phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc xây dựng các khung giá cho các loại hình điện năng, các định mức, phương thức mua bán điện trực tiếp, huy động, kinh doanh, dự trữ… Bên cạnh đó, phối hợp với Trung tâm điều độ Hệ thống điện quốc gia (A0) trong vận hành hệ thống điện, đồng thời nỗ lực trong tuyên truyền, vận động những khách hàng lớn điều chỉnh biểu đồ sử dụng điện trong giờ cao điểm, góp phần điều hòa sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả. Nỗ lực trong cơ cấu doanh nghiệp và tài chính để có điều kiện thanh toán cho các đơn vị cung ứng vật tư, nguyên liệu của mình; làm tốt công tác tuyền thông về những khó khăn vướng mắc và tăng cường tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả.

Đối với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Than Đông Bắc: Tuyệt đối tuân thủ biểu đồ cung cấp than và chỉ thị của Chính phủ về cung ứng than cho phát điện; tăng năng lực khai thác để đảm bảo nguồn cung cho các hợp đồng đã ký; khẩn trương tháo gỡ khó khăn để được cấp phép, gia hạn tăng sản lượng khai thác tại một số mỏ của mình; chủ động nhập đủ nguồn than phục vụ cho nhu cầu phát điện, cho các nhu cầu khác của nền kinh tế theo các hợp đồng đã ký và sẵn sàng đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Riêng đối với TKV vì có một số nhà máy điện nên Bộ trưởng yêu cầu cần chú ý việc chỉ đạo kiểm tra, giám sát các đơn vị của mình để các nhà máy luôn sẵn sàng nguyên liệu, nhiên liệu cho phát điện, kịp thời sửa chữa sự cố của các nhà máy (nếu có) để sẵn sàng phát tối đa công suất của các nhà máy.

Đối với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: Cần tăng năng lực khai thác và chế biến sản phẩm dầu khí phục vụ nhu cầu phát điện và nhu cầu của nền kinh tế, kể cả nguồn nguyên liệu thô và thành phẩm cho thị trường theo đúng sản lượng, khối lượng đã cam kết và các hợp đồng đã ký; chỉ đạo các nhà máy điện thuộc phạm vi quản lý chú trọng việc vận hành an toàn, hiệu quả, kịp thời sửa chữa hư hỏng, sự cố (nếu có), nhập đủ vật tư nguyên liệu sơ cấp cho phát điện theo Chỉ thị 29 của Thủ tướng Chính phủ và theo biểu đồ cung cấp than cho điện của Bộ Công Thương đã phê duyệt; chủ động nhập khẩu xăng dầu thành phẩm theo cam kết, sản lượng sản xuất và sản lượng bao tiêu của nhà máy Nghi Sơn; Khẩn trương nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền xử lý dứt điểm những vướng mắc, tồn tại của liên doanh lọc hóa dầu Nghi Sơn, kể cả việc tái cơ cấu doanh nghiệp cũng như tái cơ cấu tài chính để bảo đảm hoạt động có hiệu quả; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án mở rộng công suất Nhà máy Lọc hóa dầu Bình Sơn; chủ động nghiên cứu, đề xuất chính thức với Chính phủ, Quốc hội về việc triển khai thí điểm tổ hợp điện gió ngoài khơi trong kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII và triển khai nghiên cứu đề án điều chế sản xuất sạch (Hydrogen, Amoniac xanh..)

Đối với Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam Petrolimex: Quyết liệt chỉ đạo, vận hành hệ thống kinh doanh của Tập đoàn, bảo đảm trong mọi tình huống không để đứt gãy nguồn cung xăng dầu ở mọi phân khúc; chủ động nhập khẩu để bảo đảm đủ nguồn cung cho thị trường, kể cả sản lượng được phân giao/bổ sung và sản lượng theo nhu cầu thị trường, nhất là thời điểm Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn trong kỳ bảo dưỡng. Cùng với đó, chú trọng cập nhật, đề xuất Bộ Tài Chính, Bộ Công Thương những vấn đề mới phát sinh cần giải quyết tháo gỡ, đặc biệt là những chi phí thực tế phát sinh trong cơ cấu giá cơ sở định mức kinh doanh xăng dầu; chú trọng cấu trúc lại hệ thống kinh doanh của Tập đoàn sao cho Petrolimex hiện diện nhiều hơn, rộng hơn ở địa bàn chiến lược.

Đối với các Cơ quan đơn vị thuộc Bộ và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp: Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên yêu cầu các đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao cần tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty theo quy định của Luật và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương, UBQLV. Bên cạnh đó, tiếp tục tham mưu, giải quyết những kiến nghị đề xuất của các Tập đoàn, Tổng Công ty tại các kỳ họp trước và kỳ họp này để kịp thời kiến nghị Lãnh đạo Bộ, UBQLV chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh. Chủ động phối hợp với các đơn vị, Tập đoàn, Tổng công ty trong lĩnh vực năng lượng làm tốt công tác truyền thông về năng lượng, chuyển đổi năng lượng, tiết kiệm năng lượng…

Cùng với đó, khẩn trương rà soát sửa đổi Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về giá bán lẻ điện bình quân và Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện cho sản xuất và kinh doanh; khung giá của các loại hình điện năng, nhất là điện rác, điện sinh khối, các nguồn điện năng lượng tái tạo; định mức bảo quản xăng dầu; khẩn trương tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và Nghị định số 95/2021/NQ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu để trình Chính phủ ban hành.

Bộ trưởng nhấn mạnh: Việc phối hợp giữa các Bộ, Ngành trong việc cập nhật kịp thời, đầy đủ chi phí thực tế phát sinh trong cơ cấu bán lẻ của xăng dầu hay trong cơ cấu giá bán của các loại nhiên liệu trong lĩnh vực năng lượng để bảo đảm các doanh nghiệp kinh doanh tuân thủ pháp luật nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh theo quy luật thị trường.

Thu Hường

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất