(TG) - Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, lập nên một chính thể Dân chủ Cộng hòa. Đó là một thắng lợi xưa nay chưa từng có, một sự thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta và Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.
ĐẢNG TA THẬT LÀ VĨ ĐẠI!
Với thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám, trong
khi các tổ chức, đảng
phái “Việt quốc”, “Việt cách” tự
đào ngũ, rời bỏ hàng ngũ dân tộc,
nhân dân ta đã tin tưởng trao
sứ mệnh cầm quyền cho Đảng
do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện. Vinh dự và trách nhiệm
đến với Đảng. Ngay từ buổi bình
minh của Đảng cầm quyền, khi
thành lập Chính phủ lâm thời,
có những đồng chí trong Uỷ ban
Trung ương do Quốc dân đại hội
bầu ra, đáng lẽ tham dự Chính
phủ, song đã tự động xin lui, để
nhường chỗ cho những nhân
sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài
Mặt trận Việt Minh. Đánh giá
cao hành động gương mẫu đó,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đó là
một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không
ham chuộng địa vị, đặt lợi ích
của dân tộc, của đoàn kết toàn
dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó
là một cử chỉ đáng khen, đáng
kính mà chúng ta phải học”(1).
Với tuyên ngôn: “Đảng
không phải là một tổ chức để
làm quan phát tài. Nó phải làm
tròn nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”(2); “luôn
luôn tẩy bỏ những phần tử hủ
hóa ra ngoài”; “ngoài lợi ích của
dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng
không có lợi ích gì khác”… Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vượt lên
chính mình, làm nên những kỳ
tích tưởng như không thể. Từ
những thắng lợi trong các cuộc
kháng chiến chống xâm lược,
giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, Đảng đã khởi xướng
sự nghiệp đổi mới.
Đổi mới là sự nghiệp to lớn
của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, mang tầm vóc và ý nghĩa
cách mạng. Đổi mới cũng là một
cuộc “lửa thử vàng” để Đảng
lãnh đạo nhân dân làm nên
những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, khi sự nghiệp
đổi mới và quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, thì
“lý luận mới thật sự biến thành
thực tiễn” - theo cách nói của
Lênin rằng - sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội là vô cùng khó
khăn và phức tạp. Trong thời kỳ
quá độ, với sự đan xen và đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới,
chúng ta không thể chỉ xây dựng
xã hội mới, cuộc sống mới bằng
hành động anh hùng đơn thuần
và ý chí đơn độc. Hồ Chí Minh đã
thấy rõ điều này ngay sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám,
khi Người cho rằng dọn dẹp, sắp
đặt, giữ gìn, kiến thiết khó hơn
thắng đế quốc, phong kiến.
Cái khó ở đây không chỉ là
trong việc kiến thiết thì khó
thuyết phục, quy tụ được cả
toàn dân, vì nó đụng chạm đến
quyền lợi riêng của một vài giai
cấp mà còn chính là vì kinh
nghiệm chúng ta ít, tài năng
chúng ta còn hạn chế, công việc
thì nhiều, lại thêm nguy hiểm ngoại xâm đi liền với tình hình
nội trị và đòi hỏi phải thắng bần
cùng, lạc hậu với một phương
thức sản xuất mới.
Trong khi đó, quan liêu, tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống đã và
đang là một trong những trở lực
lớn, nguy cơ nội tại trực tiếp ảnh
hưởng đến việc thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước;
gây bất bình và giảm lòng tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân;
đe dọa sự tồn vong của Đảng và
chế độ.
V.I. Lênin chỉ rõ: “Chúng ta bị
khốn khổ trước hết về tệ quan
liêu. Những người cộng sản đã
trở thành những tên quan liêu.
Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong
chúng ta thì chính là cái đó”(3).
Hồ Chí Minh cũng từng nói đến
thất bại do quan liêu: đó là thờ
ơ, vô cảm, cách xa dân chúng,
không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, làm cho dân chúng oán,
cũng như đứng lơ lửng giữa trời,
nhất định thất bại.
“NẾU LÀM TRÁI LÒNG DÂN,
ĐỂ MẤT NIỀM TIN LÀ MẤT
TẤT CẢ”
Mất niềm tin là mất tất cả.
Đó là lời khẳng định của Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng trong bài phát biểu
bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa
XII: “Cần khẳng định, ta làm hợp
lòng dân thì dân tin và chế độ
ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì
trái lòng dân, để mất niềm tin là
mất tất cả”. Theo đó, muốn làm
hợp lòng dân thì phải dựa vào
dân: “Phải biết dựa vào dân, lắng
nghe dân, cái gì mà quần chúng
nhân dân hoan nghênh, ủng hộ
thì chúng ta phải kiên quyết làm
và làm cho bằng được; ngược lại,
cái gì nhân dân không đồng tình,
thậm chí căm ghét, phản đối thì
chúng ta phải cương quyết ngăn
ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm
các sai phạm”(4).
Nói như nguyên Thủ tưởng
Phạm Văn Đồng, trước đây cũng
như hiện nay, “sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản không phải là
một đặc quyền mà là một sứ
mệnh ngay từ đầu chính Đảng
ta đã tự mình đảm nhận và
làm tốt, nay là một thành quả
mà Đảng ta phấn đấu giữ vững
và phát huy, dựa trên tính tiên
phong của Đảng, sự đúng đắn
của đường lối, sự gương mẫu
của đảng viên, sức thuyết phục
và hiệu quả hoạt động của
Đảng, dẫn đến lòng tin của quần
chúng”. Mấu chốt nằm ở chỗ,
Đảng là đội tiên phong đồng thời
là đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp, của nhân dân lao
động và của dân tộc và đó là hai
vấn đề thống nhất với nhau. Là
đội tiên phong và đại biểu trung
thành, Đảng phải đi đầu đội ngũ
dân chúng, nhưng không đứng
trên mà đứng trong đội ngũ ấy.
Điều đó cũng có nghĩa là, Đảng
phải tự mình trở thành dân tộc,
nắm cho thật vững ngọn cờ dân
tộc và khi Đảng đã cầm quyền
thì “sự thống nhất lên đến mức
cao giữa giai cấp, nhân dân, dân
tộc, quốc gia và Đảng mà lợi ích
bao trùm là lợi ích dân tộc”(5).
Sứ mệnh của đảng cầm quyền
- đội tiên phong của giai cấp và
dân tộc là phải toàn tâm toàn
ý theo chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường
lối chính trị của Đảng là đường
lối Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ý thức tư tưởng và đường
lối Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là rường cột của một Đảng
tiên phong.
Cùng với giáo dục chủ nghĩa
Mác-Lênin, là vấn đề giáo dục
và tu dưỡng đạo đức cách mạng
trong Đảng. Từ khi xác định con đường cách mệnh, đặt lên đầu
những yêu cầu về tư cách của
một người cách mệnh, Hồ Chí
Minh đã gửi cho thế hệ thanh
niên yêu nước lúc bấy giờ và
xuyên thế kỷ đến ngày nay
một thông điệp quan trọng: đó
là đạo đức, tư cách của người
cách mạng là tiêu chí hàng đầu.
Theo Hồ Chí Minh, con người
cần đạo đức như bốn mùa của
trời, bốn phương của đất. Không
có đức thì không thành người.
Con người cán bộ, đảng viên có
chức quyền lại càng cần đạo đức,
quyền càng to thì đạo đức càng
phải sáng ngời. Bởi vì, “có quyền
mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp
“dĩ công vi tư”. Quan điểm này,
nhất là với nhận thức quyền lực
có xu hướng tha hóa, quyền lực
tuyệt đối, tha hóa tuyệt đối, Hồ
Chí Minh nói rõ hơn về mối quan
hệ giữa đảng cầm quyền với đạo
đức cách mạng trong những lời
dặn lại trước lúc đi xa. Trong “Di
chúc”, Người viết: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân”.
Vấn đề đặt ra là phải kiểm
soát quyền lực. “Cái lồng” nào
có thể nhốt được quyền lực?
Ta đã nói nhiều và thực hiện
có một số kết quả bước đầu khi
khẳng định cấp ủy cấp trên và
tổ chức đảng kiểm soát quyền
lực. Ta đã có quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội; quy định về việc Mặt
trận và các đoàn thể chính trị
- xã hội và nhân dân tham gia
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền; Đảng cũng đã nêu
phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” và
những quy chế, quy định đó đã,
đang dần dần từng bước đi vào
cuộc sống.
Phải tổ chức sự kiểm soát, mà
muốn kiểm soát đúng thì phải
có quần chúng giúp mới được,
đúng như Người viết: “Một cách
nữa là từ dưới lên. Tức là quần
chúng và cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của người lãnh đạo và bày
tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm
đó. Cách này là cách tốt nhất để
kiểm soát các nhân viên”(6).
Thực tế cho thấy, đa số
những vụ việc tiêu cực vừa qua
là do nhân dân, báo chí, công
luận phát hiện, đấu tranh. Đó
là minh chứng hùng hồn cho
tính đúng đắn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về “cái lồng” nhân dân
kiểm soát quyền lực.
Đảng là ai? Đảng là mỗi
chúng ta. Nhận thức như vậy
để thấy rằng, sự tự tu dưỡng
của mỗi cán bộ, đảng viên có ý
nghĩa rất lớn. Những học viên
thời dựng Đảng và những cán
bộ, đảng viên hiện nay - dù
xuất thân từ thành phần nào
nhưng khi đứng trong hàng
ngũ của Đảng thì tiêu chuẩn cơ
bản vẫn là lòng chân thành yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có
lý tưởng cách mạng cao cả, có
phẩm chất đạo đức tốt. Chân
thành yêu nước thì có thể đi
vào cộng sản, sẽ suốt đời hết
lòng, hết phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh
từng nói, người cán bộ, đảng
viên muốn trở nên người cách
mạng chân chính không có gì là
khó. Điều đó hoàn toàn do lòng
mình mà ra. Lòng mình chỉ biết
vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào
sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư,
mà chí công vô tư là đạo đức cao
nhất, là cốt lõi của đạo đức cách
mạng; là đề cao chủ nghĩa tập
thể và lợi ích tập thể; là chống
chủ nghĩa cá nhân.
Toàn tâm, toàn ý tin theo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và lấy đức làm gốc,
đảng cầm quyền chân chính
cách mạng - đội tiên phong của
giai cấp và dân tộc sẽ thực hiện
tốt và hoàn thành sứ mệnh
của mình là xây dựng đất nước
phồn vinh, đem lại hạnh phúc
cho nhân dân. Phải kiên quyết,
kiên trì, nỗ lực lớn, trong đó sự
gương mẫu của Trung ương là
cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa
quyết định. Từng đồng chí Uỷ
viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban
Bí thư, Uỷ viên Trung ương Đảng
tự giác gương mẫu làm trước,
thực hiện trước, quyết liệt trong
cả xây và chống, có trách nhiệm
và phải dám chịu trách nhiệm
trước nhân dân.
Điều có ý nghĩa quyết định
là làm, làm thật sự, làm quyết
liệt. Toàn tâm, toàn ý không chỉ
dừng ở tuyên ngôn, nghị quyết,
lời nói, phát biểu ấn tượng, ở
chỗ viết lên trán hai chữ “cộng
sản” mà phải bằng hành động
thật sự.
Qua hơn 30 năm đổi mới,
chúng ta đã có nhiều nghị quyết
về xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
vừa cấp bách vừa có ý nghĩa
chiến lược lâu dài. Cuộc sống
phát triển, đòi hỏi toàn Đảng tiếp
tục trăn trở để có các nghị quyết
tiếp theo về công tác xây dựng
Đảng.
Nhưng điều có ý nghĩa
quyết định nhất là nói phải đi đôi
với làm và Đảng: “Phải luôn luôn
do nơi quần chúng mà kiểm soát
những khẩu hiệu và chỉ thị đó
có đúng hay không… Đảng phải
luôn luôn xét lại những nghị
quyết và những chỉ thị của mình
đã thi hành thế nào. Nếu không
vậy thì những nghị quyết và chỉ
thị đó sẽ hóa ra lời nói suông
mà còn hại đến lòng tin cậy của
nhân dân đối với Đảng”(7).
PGS.TS. Bùi Đình Phong
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất
bản lần thứ 3, H, 2011, t.7, tr.26.
(2), (6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.5, tr.289, 328; 289-290.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến
bộ, M, 1979, t.54, tr.290.
(4) Nguyễn Phú Trọng: Chống
tham nhũng: dựa vào dân, lắng
nghe dân, báo Lao động, ngày
27-6-2018.
(5) Trần Bạch Đằng: Đến với tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2004,
tr.96.
____________________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 1/2019