Việt Nam đã và đang tham gia ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do
(FTA) song phương, đa phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ như FTA với
Liên minh châu Âu, Liên minh Hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan, Hiệp định
Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tham gia Cộng
đồng kinh tế ASEAN...
Đây sẽ là cơ hội tốt để doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng xuất khẩu
sang các thị trường mới trong khu vực và thế giới. Song trên thực tế,
để làm được điều này cũng không phải là điều dễ dàng.
Theo ông Lê Phước Vũ, Chủ tịch Tập đoàn Tôn Hoa Sen, việc tham gia hàng loạt FTA sẽ đem lại lợi thế lớn cho Việt Nam.
“Chúng ta thấy rõ xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng và
sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư của thế giới đổ dồn về khu vực Đông Nam
Á; trong đó có Việt Nam. Đây là thời điểm thuận lợi bởi chúng ta đang có
“dân số vàng,” chi phí nhân công thấp, nhiều chính sách thu hút đầu tư,
nên cơ hội tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp
Việt Nam và khả năng thu hút dòng vốn đầu tư rất lớn,” ông Vũ chia sẻ.
Đánh giá về tác động của các FTA, đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp,
ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI), cho
rằng các FTA một mặt sẽ tạo động lực để thúc đẩy nhanh hơn quá trình đổi
mới thể chế kinh tế ở Việt Nam, mặt khác, doanh nghiệp trong nước sẽ có
điều kiện thâm nhập vào thị trường lớn hàng đầu thế giới với thuế quan
hầu hết là bằng 0% và với những rào cản được giảm thiểu.
Đặc biệt Việt Nam có điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa
Kỳ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Nga, Belarus, Kazakhstan. Một số
lĩnh vực kinh doanh có lợi ích cốt lõi như dệt may, giày dép và các mặt
hàng nông sản...
Tuy nhiên, theo ông Lộc, các điều kiện để hội nhập bên cạnh hàng rào
thuế quan đã giảm xuống thì hàng rào kỹ thuật lại tăng lên. Do đó, doanh
nghiệp phải đảm bảo được các điều kiện về tiêu chuẩn, chất lượng hàng
hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về xuất xứ.
“Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam phải đặt trong chuẩn
mực quốc tế, vươn tới tiêu chuẩn quốc tế. Nếu không thì chúng ta không
thể thâm nhập được vào thị trường của các nước. Đây là thách thức mà
doanh nghiệp phải vượt qua,” ông Lộc cho biết.
Báo cáo từ VCCI cho thấy có tới 96% số doanh nghiệp Việt Nam là các
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, với sự yếu kém cả về nguồn vốn, công nghệ
và trình độ lao động. Điều này khiến các doanh nghiệp trong nước chưa đủ
năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài hoặc tham
gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Cùng quan điểm với Chủ tịch VCCI, ông Lê Phước Vũ cũng đã chỉ ra những
thách thức đằng sau hội nhập: “Nếu chúng ta không chuẩn bị tinh thần để
đón đầu dòng vốn đó, cơ hội đó, thiếu sự chuẩn bị nội lực để tạo ra các
sản phẩm cạnh tranh cao thì chúng ta sẽ bị tụt lại so với các nước trong
khu vực.”
Theo ông Vũ, các tập đoàn của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thường kéo
theo các doanh nghiệp vệ tinh, nên doanh nghiệp Việt Nam khó tham gia
vào chuỗi cung ứng. Trong khi thực tế hiện nay, Việt Nam đang thiếu
những doanh nghiệp đầu đàn, đóng vai trò dẫn dắt, giúp các doanh nghiệp
nhỏ đi lên.
Ngoài ra, một điểm yếu được nhiều chuyên gia nhận định là ngay bản thân
doanh nghiệp tư nhân trong nước sức cạnh tranh còn yếu, nguồn vốn hạn
hẹp, công nghệ và quản lý còn yếu kém. Nhiều ngành nghề như tôn-thép,
thủy sản luôn gặp khó khăn khi thâm nhập vào thị trường các nước bởi các
rào cản kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại.
Không chỉ dừng ở khía cạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước còn
phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà.
Đại diện Công ty cổ phần ôtô Trường Hải cho hay trong quá trình hội
nhập, thuế suất giảm dần và có lộ trình về 0%, nhiều khả năng sản phẩm
ôtô giá rẻ từ các nước trong khu vực như Indonesia, Thái Lan cũng sẽ
tràn vào Việt Nam. Đây chính là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
sản xuất lắp ráp ôtô trong nước.
Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ ôtô trong nước năm qua mặc dù có sự
tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng nếu so với các nước trong khu vực thì con số
tiêu thụ hơn 150.000 xe/năm còn quá thấp.
Thị trường trong nước tiêu thụ nhỏ, khó khăn trong việc tham gia chuỗi
cung ứng toàn cầu và cạnh tranh trong hội nhập khiến các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong nước vốn đã tồn tại nhiều hạn chế lại càng trở nên yếu
hơn trong cạnh tranh khi hội nhập.
Chia sẻ thêm về những hạn chế của doanh nghiệp, ông Đỗ Hữu Hào, Chủ tịch
Tổng hội cơ khí Việt Nam, nguyên là Thứ trưởng Bộ Công Thương, cho hay
không chỉ ở ngành công nghiệp ôtô, mà ở nhiều ngành nghề khác, các doanh
nghiệp công nghiệp phụ trợ hiện vẫn chỉ ở vạch xuất phát nếu so sánh
với các nước phát triển.
Các doanh nghiệp này, ngoài yếu về công nghệ, còn yếu kém về vốn và
nguồn nhân lực, nên chưa sản xuất được những sản phẩm công nghệ cao, đem
lại giá trị gia tăng lớn, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, khi
hội nhập, những điểm yếu này càng bộc lộ rõ nét hơn trước những đối thủ
cạnh tranh từ các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây chính là
những thách thức mà các doanh nghiệp trong nước chưa thể vượt qua.
Trong khi năng lực cạnh tranh và sức kháng cự của các doanh nghiệp Việt
Nam còn hạn chế, cộng đồng doanh nghiệp trong nước kỳ vọng Chính phủ sẽ
tiếp tục các giải pháp lớn về xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng,
thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trên cơ sở xác định
doanh nghiệp là lực lượng chủ lực để phát triển kinh tế-xã hội cùng đất
nước.
Ông Lê Phước Vũ cho rằng trong khủng hoảng, nhiều doanh nghiệp đã đứng
vững, tạo được uy tín, thương hiệu, xúc tiến thương mại tốt. Tuy nhiên,
sự hỗ trợ của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan xúc
tiến thương mại cũng rất quan trọng.
Ngoài việc quy định rõ hơn về các mã thuế cho các mặt hàng tôn-thép, thì
cũng cần giải quyết mạnh tay hàng giả, hàng nhái và các sản phẩm giá rẻ
không rõ nguồn gốc gây ảnh hưởng đến hoạt động và uy tín của doanh
nghiệp làm ăn chân chính. Điều này vô hình chung làm giảm sức cạnh tranh
của doanh nghiệp ngay ở thị trường trong nước.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ có thể đẩy mạnh
hỗ trợ tài chính bằng việc tạo nguồn vốn dài hạn, lãi suất hợp lý hơn.
Đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp tôn-thép, ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ
tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, cho rằng không chỉ mặt hàng tôn-thép trong
nước mà nhiều mặt hàng đều phải đối mặt với vấn nạn hàng giả, hàng nhái.
Bên cạnh đó, ông Dũng cũng kiến nghị Chính phủ xem xét Thông tư liên
tịch số 44/2013 giữa Bộ Công Thương và Bộ Khoa học Công nghệ về quy định
về quản lý chất lượng thép sản xuất trong nước và thép nhập khẩu, liên
quan đến việc giảm thủ tục kiểm tra, giám sát hàng hóa, mà có thể áp
dụng chính sách hậu kiểm để giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, sản xuất ôtô, Việt Nam đã mất 20
năm để phát triển. Nhưng cho đến nay, hầu hết các doanh nghiệp trong
nước mới chỉ thực hiện ở khâu lắp ráp, các chi tiết phụ tùng cung cấp ra
thị trường có giá trị gia tăng thấp.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI), ông Đào Phan
Long, cho biết các chính sách đối với ngành ôtô Việt Nam hiện nay tác
động rất ít, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển của ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam.
Chính sách khuyến khích đầu tư cũng chưa đủ mạnh và khó áp dụng trong
thực tiễn triển khai, chưa kể thiếu sự ổn định, nhất quán, đặc biệt là
các chính sách về thuế.
VAMI đã gửi kiến nghị lên Chính phủ xin một số ưu đãi để phát triển
ngành và tiến tới hội nhập, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Cụ thể như
đối với lĩnh vực sản xuất công nghiệp phụ trợ, VAMI xin thêm ưu đãi cho
vay dài hạn (15-20 năm) lãi suất từ 0-3% để đầu tư sản xuất sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ, hoặc bù 100% lãi suất trong 5 năm đầu.
Đồng thời, Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành liên quan sớm hoàn thiện
các chính sách cho ngành công nghiệp ôtô để các doanh nghiệp chủ động
lập kế hoạch đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần tạo cơ hội cho thị trường tiêu thụ ôtô phát
triển, bởi có dung lượng thị trường đủ lớn, thì các doanh nghiệp phụ
trợ trong nước mới có chỗ để đầu tư sản xuất, tham gia cung ứng và phát
triển./.
Đức Dũng (TTXVN)