Luật Giáo dục 2019 quy định Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước.
Ngày 4/7, Văn phòng Chủ tịch nước đã họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước về bảy luật đã được Quốc hội
khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 7, trong đó có Luật Giáo dục năm 2019.
Chia sẻ về những điểm mới trong Luật Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ cho biết Luật Giáo dục năm 2019 gồm 9 chương,
115 điều, thay thế Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Giáo dục năm 2009.
So với quy định của Luật Giáo dục hiện hành, Luật Giáo dục 2019 có
bảy điểm mới cơ bản nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục và đào tạo; góp phần xây dựng
nền giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Đồng thời, luật cũng tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền giáo
dục Việt Nam là nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học
tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây
dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng.
LÀM RÕ TÍNH LIÊN THÔNG, PHÂN LUỒNG, HƯỚNG NGHIỆP TRONG GIÁO DỤC
Luật Giáo dục năm 2019 đã bổ sung quy định cụ thể về hướng nghiệp,
phân luồng và liên thông trong giáo dục, làm rõ khái niệm, nguyên tắc,
cơ chế hướng nghiệp, phân luồng và liên thông, tạo hành lang pháp lý để
triển khai thực hiện trong thực tiễn, bảo đảm cơ hội học tập, phát triển
bình đẳng cho mọi người và giao Chính phủ quy định cụ thể (Điều 9, Điều
10).
LUẬT HÓA CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Theo Luật Giáo dục mới, Chương trình giáo dục phổ thông quy định yêu
cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh cần đạt được sau mỗi cấp học.
Nội dung giáo dục bắt buộc đối với tất cả học sinh toàn quốc; quy
định phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục và đánh giá kết
quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học của giáo dục phổ
thông.
Chương trình thống nhất trong cả nước, được tổ chức thực hiện linh
hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và cơ sở giáo dục. Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về chất lượng chương
trình giáo dục phổ thông; ban hành chương trình giáo dục phổ thông sau
khi hội đồng quốc gia thẩm định... (Điều 31).
Sách giáo khoa có chức năng triển khai chương trình giáo dục phổ thông, cụ thể hóa yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông về mục tiêu, nội dung giáo dục, yêu cầu về phẩm chất và năng lực của
học sinh; định hướng về phương pháp giảng dạy và cách thức kiểm tra,
đánh giá chất lượng giáo dục.
Mỗi môn học có một hoặc một số sách giáo khoa, thực hiện việc xã hội hoá việc biên soạn sách giáo khoa (Điều 32).
BỔ SUNG LOẠI HÌNH TRƯỜNG TƯ THỤC KHÔNG VÌ LỢI NHUẬN
Luật Giáo dục nắm 2019 có bổ sung quy định trường tư thục hoạt động
không vì lợi nhuận. Đây là trường mà nhà đầu tư cam kết và thực hiện cam
kết hoạt động không vì lợi nhuận, được ghi trong quyết định thành lập
hoặc quyết định chuyển đổi loại hình trường; hoạt động không vì lợi
nhuận, không rút vốn, không hưởng lợi tức. Phần lợi nhuận tích lũy hằng
năm thuộc sở hữu chung hợp nhất không phân chia để tiếp tục đầu tư phát
triển nhà trường.
Đồng thời, luật bổ sung nguyên tắc chuyển đổi loại hình nhà trường từ
trường tư thục sang trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận và giao
Chính phủ quy định cụ thể (Điều 47).
Về hội đồng trường, Luật Giáo dục quy định áp dụng đối với trường
công lập, trường dân lập, trường tư thục và quy định vị trí, chức năng,
thành phần cụ thể của hội đồng trường đối với từng loại hình giáo dục
mầm non, phổ thông.
Hội đồng trường của cơ sở giáo dục Nghề nghiệp, giáo dục Đại học
thực hiện theo Luật Giáo dục Nghề nghiệp, Luật Giáo dục Đại học (Điều
55).
NÂNG TRÌNH ĐỘ CHUẨN ĐÀO TẠO CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON, TIỂU HỌC, TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC
Luật Giáo dục quy định chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên mầm non
từ Trung cấp sư phạm lên cao đẳng sư phạm; giáo viên tiểu học từ trung
cấp sư phạm lên cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên; giáo viên Trung
học cơ sở từ Cao đẳng sư phạm lên cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên.
Trường hợp môn học chưa đủ giáo viên có bằng cử nhân thuộc ngành đào
tạo giáo viên thì phải có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và có chứng
chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Nhà giáo giảng dạy trình độ đại học,
phải có chuẩn trình độ từ đại học lên thạc sỹ.
Để bảo đảm tính khả thi, không làm xáo trộn, ảnh hưởng đến công tác
tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng đào tạo,
yêu cầu nghề nghiệp, Luật Giáo dục đã giao Chính phủ quy định lộ trình
thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu
học, trung học cơ sở (Điều 72).
QUY ĐỊNH CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN ĐÓNG HỌC PHÍ VÀ CHI PHÍ SINH HOẠT ĐỐI VỚI HỌC SINH, SINH VIÊN SƯ PHẠM
Luật Giáo dục quy định học sinh, sinh viên sư phạm được hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt trong toàn khóa học.
Người được hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt sau 2 năm kể
từ khi tốt nghiệp nếu không công tác trong ngành giáo dục hoặc công tác
không đủ thời gian quy định thì phải bồi hoàn khoản kinh phí nhà nước
đã hỗ trợ. Thời hạn hoàn trả tối đa bằng thời gian đào tạo. Học sinh,
sinh viên sư phạm được hưởng các chính sách học bổng khuyến khích học
tập, trợ cấp xã hội, miễn, giảm học phí.
(Ảnh minh họa: TTXVN)
Quy định này nhằm khắc phục những hạn chế của chính sách không phải
đóng học phí của học sinh, sinh viên sư phạm quy định tại Luật Giáo dục
hiện hành (Điều 85).
QUY ĐỊNH CHÍNH SÁCH VỀ HỌC PHÍ ĐỐI VỚI HỌC SINH DIỆN PHỔ CẬP
Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì Nhà nước “bảo đảm giáo dục Tiểu
học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí” và theo Nghị quyết số
29-NQ/TW, Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục bắt buộc 9 năm sau năm
2020.
Vì vậy, Luật Giáo dục quy định, giáo dục tiểu học là giáo dục bắt
buộc; Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và
phổ cập giáo dục Trung học cơ sở.
Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện giáo dục bắt buộc trong cả nước;
quyết định kế hoạch, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo
dục. Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để thực
hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc (Điều 14). Học
sinh Tiểu học trong cơ sở giáo dục công lập không phải đóng học phí.
Ở địa bàn không đủ trường công lập, học sinh tiểu học trong cơ sở
giáo dục tư thục được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí, mức hỗ trợ do
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Trẻ em mầm non 5 tuổi ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo
được miễn học phí và giao Chính phủ quy định lộ trình thực hiện đối với
trẻ em mầm non 5 tuổi và học sinh Trung học cơ sở (Điều 99).
QUY ĐỊNH VỀ ĐẦU TƯ VÀ TÀI CHÍNH CHO GIÁO DỤC
Luật Giáo dục 2019 quy định Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí
ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào
tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước (khoản 1 Điều 96).
Ngoài ra, Luật Giáo dục đã sửa đổi quy định quản lý chặt chẽ nguồn
thu, chi tài chính, quản lý tài sản theo quy định của Luật Ngân sách Nhà
nước và Luật Quản lý sử dụng tài sản công đối với các cơ sở giáo dục
công lập; nhấn mạnh trách nhiệm giải trình, thực hiện chế độ kế toán,
kiểm toán, thuế và công khai tài chính theo quy định của pháp luật (Điều
95, Điều 101…).
Để bảo đảm các nội dung của Luật Giáo dục được triển khai thực hiện có hiệu quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có
liên quan tổ chức xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết
các nội dung được giao trong Luật Giáo dục, đồng thời, rà soát, sửa đổi,
bổ sung hoặc thay thế các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để phù
hợp với nội dung của Luật Giáo dục 2019.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020./.
(TTXVN)