1. Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin, thời mà ai cũng có thể phát ngôn, ai cũng có quyền bày tỏ chính kiến qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là trên các trang mạng xã hội. Ai cũng có thể nghe, tìm hiểu bất kỳ một quan điểm nào đó có thể là cực đoan, có thể là sai trái. Đây là cơ hội để kẻ xấu lợi dụng tiến hành mưu đồ “diễn biến hòa bình” rất nguy hiểm, thâm độc.
Có một quy luật tiếp nhận thông tin là người đọc hay quan tâm đến những phát ngôn ngược với quan điểm chính thống, vì nó lạ, gây tò mò. Do vậy có một vài blog cá nhân, một số trang mạng nước ngoài, để thu hút lượng người đọc bèn cố tình đưa ra những thông tin sai lạc, phản động.
Trên thực tế có số ít cán bộ tha hóa, biến chất làm ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của nhân dân vào chế độ. Có vị cán bộ cấp cao lúc đương chức thì tỏ ra liêm khiết nhưng khi về hưu lại xây biệt thự riêng thật hoành tráng. Người dân sẽ đánh dấu hỏi, tiền để xây biệt thự ấy ở đâu ra. Thật khó để trả lời…“Con sâu làm rầu nồi canh”, từ một hai hiện tượng người dân sẽ nghi ngờ tính trong sạch của cả một bộ máy. Kẻ thù sẽ lợi dụng khoét sâu, tung hỏa mù, đánh lạc hướng…
Đang có một hiện trạng cần điều chỉnh là chúng ta quan tâm tới đào tạo tài năng mà ít chú ý tới giáo dục đạo đức về ý thức công dân. Công việc thường xuyên phải làm là tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, ý thức tư tưởng chính trị liên tục cho văn nghệ sĩ đang bị coi nhẹ. Minh chứng dễ thấy là ở không ít trường, đơn vị nghệ thuật các buổi học Nghị quyết, các đợt sinh hoạt chính trị,…chỉ là hình thức.
Người ta quan niệm phiến diện, cực đoan cho rằng chuyên môn mới là quyết định mà quên một điều rằng làm nên một nhân cách nghệ sĩ đích thực thì phải có kết hợp của ý thức chính trị và tài năng nghiệp vụ. Quy luật của nghệ thuật là quy luật của tình cảm. Có ý thức chính trị cao mới tạo tiền đề cho tình yêu, cho tâm huyết - vốn được coi là những điều sống còn của nghệ thuật. Cây nghệ thuật có tươi mát, có sum xuê hoa trái là nhờ được trồng trên mảnh đất của tình yêu. Thiếu tình yêu nghệ thuật nhất định khô héo. Tình yêu luôn tìm đến tình yêu. Người nghệ sỹ có yêu nghệ thuật hết lòng, có đam mê phục vụ công chúng hết lòng thì tự nhiên sẽ được tình yêu của công chúng đáp lại. Tình yêu và tài năng như hai cánh tay trong một cơ thể nghệ thuật. Mất tình yêu tức là sự báo hiệu thui chột, què cụt một tài năng. Tình yêu không tự nhiên có mà do sự giáo dục, do rèn luyện bản lĩnh của một ý thức chính trị nhất định.
2. Nhà nghệ sĩ làm giàu cho văn hóa dân tộc bằng tác phẩm nghệ thuật, mà tác phẩm ấy có được là nhờ ở sự kết tinh từ tài năng và nhân cách người nghệ sĩ. Do vậy công việc bồi dưỡng giáo dục nhân cách văn hóa cho họ là cực kỳ quan trọng. Vì lẽ này mà sinh thời Bác Hồ rất chú trọng vấn đề chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật và luôn nhắc nhở các nghệ sỹ phải luôn cố gắng tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, ý thức tư tưởng chính trị thường xuyên. Có thể ví phẩm chất chính trị và tài năng (mà Người khái quát thành hai phạm trù “tài, đức” của người cán bộ cách mạng nói chung) như hai cánh của con chim, thiếu một cánh, chim không thể bay được, một cánh yếu một cánh khỏe chim cũng không thể bay được xa.
Văn học nghệ thuật luôn là lĩnh vực sáng tạo tinh thần đặc biệt gắn chặt với tư tưởng, tâm hồn con người nghệ sĩ. Vì sao vậy?
Thứ nhất, đây là lĩnh vực của cái tôi, của cá tính. Mà cá tính là cái riêng, nổi trội để tạo ra tiếng nói riêng, giọng điệu riêng. Nhưng phải là cá tính sáng tạo, tức là phải tạo ra cái mới, tiến bộ, phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ, mới mẻ, độc đáo. Người nghệ sỹ cống hiến cho xã hội không bằng số lượng của cải vật chất mà bằng các giá trị tinh thần, làm mới các giá trị tinh thần.
Thứ hai, năng khiếu sáng tạo đòi hỏi người nghệ sỹ sự nhạy cảm, nhất là nhạy cảm trước những biến động xã hội. Có thể ví người nghệ sỹ như cái cần ăngten thu phát những tín hiệu đổi thay của cuộc sống. Nhưng không phải nghệ sỹ nào cũng có một sức đề kháng, một “bộ lọc” hoàn hảo để thu phát những tín hiệu tích cực, lành mạnh nên có người vô tình bị kẻ xấu lợi dụng mà trở thành cái loa tuyên truyền, gieo rắc những mầm mống tiêu cực.
Thứ ba, về bản chất hình tượng thì văn học nghệ thuật sáng tạo ra một “cuộc sống thứ hai”, cuộc sống này thoát thai từ cuộc sống thực, nhưng nó chỉ là mô hình của cuộc sống chứ không phải “chụp ảnh” từ đời sống thực. Có bao nhiêu tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị đích thực là có bấy nhiêu mô hình. Mà đã gọi là mô hình thì có cái giống, có cái khác, lại có cái xa lạ, thậm chí ngược với đời sống thực. Chính vì lẽ này mà tiếp nhận văn học nghệ thuật luôn là vấn đề phức tạp. Có mô hình bị ngợi ca vô lối, có mô hình bị hiểu sai, có cái thì bị lợi dụng…
Thứ tư, xét ở góc độ tiếp nhận thì văn học nghệ thuật là món ăn tinh thần không thể thiếu, nhưng trong thời buổi tiếp biến văn hóa mạnh mẽ hiện nay lại có món ăn, vì nhiều lý do cả chủ quan lẫn khách quan mà dễ bị/gây ngộ độc.
3. Tâm lý học sáng tạo nghệ thuật khẳng định trong cấu trúc tư chất ở người nghệ sỹ, thì điều trước hết cần có là giàu tình cảm, dễ xúc động.
Trong khoa học thì tình cảm nằm trong tiền đề sáng tạo còn trong nghệ thuật thì tình cảm nằm ngay trong thành phần sáng tạo. Để phát minh ra vấn đề gì mới thì trước đó nhà khoa học phải có niềm đam mê mãnh liệt, cháy bỏng để làm việc đến quên ăn quên ngủ.
Tâm huyết ở nhà nghệ sỹ đòi hỏi phải cao gấp nhiều lần nhà khoa học. Trước khi hát anh ta phải hiểu và yêu bài hát ấy, khi hát anh ta còn phải hát với tất cả tình yêu của mình, hát bằng cả con người mình, biểu hiện, thể hiện bằng cả con người mình. Nghệ thuật không thể tầm thường đã đành, nghệ thuật phải trên mức thông thường là như vậy.
Tài năng nghệ thuật luôn là hiếm hoi, bởi không chỉ có cần cù mà phải có năng khiếu mới tạo tiền đề để có một con người nghệ sỹ. Hiếm cho nên quý. Do vậy rất cần tạo ra một cơ chế riêng ưu đãi cho giới nghệ sỹ. Nghệ sỹ luôn sống và sáng tạo bằng cái tôi, do vậy, rất cần tạo ra một môi trường cái tôi đặc thù của nghệ sỹ phát triển lành mạnh. Nhưng họ cũng là một công dân, dù có tự do trong cái tôi thì vẫn phải ý thức được trách nhiệm công dân của mình là sáng tạo theo tinh thần phụng sự cách mạng, phụng sự nhân dân, chống lại cái ác, cái xấu, cái lỗi thời, cái phản động.
4. Cuộc sống cách mạng vừa là cái nôi, là mảnh đất màu mỡ, vừa là cảm hứng, vừa là đối tượng sáng tạo của nghệ thuật hôm nay. Bất kỳ một nghệ thuật chân chính nào, trước nay cũng đều bắt nguồn từ đời sống, phản ánh và phục vụ đời sống. Và như vậy mới có thể làm tròn sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”. Ở ngày hôm nay khi xã hội vận hành theo cơ chế thị trường thì văn học nghệ thuật càng phải quán triệt đối tượng phục vụ là quần chúng. Vì xét đến cùng, một vở kịch, một cuốn tiểu thuyết... phải có người xem người đọc, mà số lượng người đọc đông đảo nhất là quần chúng nhân dân.
Cái đẹp nằm trong cuộc sống, là bản thân cuộc sống. Người nghệ sỹ phải đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để khám phá, sáng tạo. Một đề tài thường gặp của văn học nghệ thuật hôm nay là tình yêu, tình dục, tiền vàng, là chuyện cướp bóc, tù tội, là những suy nghĩ quẩn quanh, vụn vặt… Những cái đó đều là đời sống, thuộc về đời sống nhưng dứt khoát không phải là điều cơ bản, không phải là ý nghĩa mang tầm thời đại, không phải là hơi thở của thời đại đang diễn ra.
Hướng văn nghệ đi theo quỹ đạo đổi mới vì mục tiêu nhân bản: dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, chính Bác Hồ đã gợi ý cho ngày hôm nay: “…các nhà văn hoá ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng”. Trong những năm kháng chiến các văn nghệ sỹ đã “đi sâu vào quần chúng” bằng những chuyến đi thực tế dài ngày, nhờ đó họ có những tác phẩm để đời. Nhưng hôm nay vì bỏ cơ chế bao cấp mà chúng ta ít có cách thâm nhập thực tế rất cơ bản, cần thiết ấy. Chủ nghĩa Mác quan niệm hiện thực là nguồn gốc của nhận thức. Văn nghệ là một hình thái ý thức nên càng phải cắm sâu vào mảnh đất hiện thực để hút lấy chất dinh dưỡng của cuộc đời. Thoát ly hiện thực, nghệ thuật nhất định khô héo. Vậy thì một trong những cách để thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật hôm nay là tạo điều kiện cho văn nghệ sỹ thâm nhập thực tế, càng nhiều càng tốt, càng sâu càng hay.
Chỉ có từ đời sống, bắt nguồn từ đời sống mới có thể nảy nở những tài năng. Không có cách nào khác muốn rèn luyện tài năng thì người nghệ sĩ phải trở về cái gốc của nghệ thuật là đời sống muôn màu muôn vẻ kia. Để phát hiện những năng khiếu, điều kiện cần có của tài năng cũng phải tìm từ đời sống. Trong lịch sử văn hóa nhân loại cũng chưa có thiên tài nghệ thuật nào không được gieo hạt, nảy mầm, bắt rễ, lớn lên, trưởng thành từ cái nôi đời sống.
5. Bồi dưỡng giáo dục nhân cách cho văn nghệ sĩ cũng chính là cách chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực văn hóa. Đây là cuộc đấu tranh không tiếng súng nhưng cực kỳ căng thẳng, gay gắt, âm thầm, bởi nó vô hình và diễn ra bên trong con người.
Nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, như Bác Hồ đã rất nhiều lần nhắc nhở ta phải cảnh giác, đó chính là “chủ nghĩa cá nhân”. Mà trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, như đã nói ở trên, là lĩnh vực của cái tôi, của cá tính nên “chủ nghĩa cá nhân” rất có điều kiện nảy nở.
Và có khi “chủ nghĩa cá nhân” được ngụy trang tinh vi dưới cái vỏ bọc “cá tính sáng tạo” nên rất khó phát hiện.
Đó là tình trạng chạy theo hoặc thích thú với thị hiếu tầm thường của số ít cá nhân nghệ sỹ và một bộ phận công chúng, nên có những nghệ sỹ bỏ qua đặc trưng của văn học nghệ thuật là cái đẹp mà đi vào mô tả những gì gần với bản năng.
Đó là “sáng tác” kiểu “ăn xổi” chạy theo số lượng, chiều theo những tâm lý xã hội nhất thời, viết để bán sách, viết để có tên tuổi…Đó là sự a dua, nói theo những ý kiến trái chiều, nói ngược với những quan điểm chính thống, để được chú ý…
Những thực tế ấy cho chúng ta thấy công tác bồi dưỡng giáo dục nhân cách nghệ sĩ càng cần thiết, cấp bách, thường xuyên, liên tục. Cơ thể con người càng khỏe mạnh thì càng có sức đề kháng trước các yếu tố bất lợi của thiên nhiên, thời tiết. Chống xâm lăng văn hóa thì điều trước tiên là tăng cường cho cơ thể con người những phẩm chất cao về văn hóa, nhất là đối với những người mang tính chủ thể của văn hóa./.
Quốc Tuấn
(Nguồn: vannghequandoi.com.vn)