Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Chỉ thị 21/CT-TTg
về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết
nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông.
Chỉ thị nêu rõ, ngày 14/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 200/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng
lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
Sau hơn 01 năm thực hiện Quyết định, các cơ quan, đơn vị đã nỗ lực triển
khai các nhóm nhiệm vụ trọng yếu để đạt được mục tiêu đặt ra, bước đầu
đạt được một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông phát triển chưa đồng đều,
thiếu đồng bộ; kết nối các phương thức vận tải chưa hiệu quả; chưa phát
huy tốt các nguồn lực về hạ tầng, con người, thị trường nội địa và khu
vực; các trung tâm logistics đóng vai trò kết nối Việt Nam với quốc tế
chưa được đầu tư, xây dựng… dẫn đến chi phí logistics vẫn còn cao ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Để
giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông
phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ đem lại giá trị gia
tăng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, Thủ tướng Chính
phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương, theo chức năng và nhiệm vụ
được giao có chương trình cụ thể thực hiện kế hoạch hành động nâng cao
năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm
2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 200/QĐ-TTg
ngày 14/02/2017 với 6 nhóm nhiệm vụ chính: 1) Hoàn thiện chính sách,
pháp luật về dịch vụ logistics; 2) Nâng cao năng lực kết cấu hạ tầng
logistics; 3) Nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ; 4)
Phát triển thị trường dịch vụ logistics; 5) Đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; 6) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng
của dịch vụ logistics đối với sự phát triển của đất nước.
Phát huy tối đa vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành
chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục kiểm tra
chuyên ngành; nâng cao chất lượng công tác lập và tổ chức thực hiện quy
hoạch; tăng cường kết nối, phát triển hợp lý các phương thức vận tải,
phát huy tối đa vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics; tăng
cường kết nối các phương thức vận tải, giảm chi phí, nâng cao chất lượng
dịch vụ vận tải.
Đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa, giảm thị phần vận tải
bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường biển, đường sắt và đường
thủy nội địa, đặc biệt là trên các hành lang vận tải chính.
Ưu
tiên phát triển mạnh vận tải ven biển, vận tải sông pha biển, nhằm vận
chuyển hàng hóa, giảm tải cho đường bộ, đồng thời tận dụng hiệu quả điều
kiện tự nhiên sẵn có về sông, biển để kết nối vận tải hàng hóa giữa
hàng hải, đường thủy nội địa với các phương thức vận tải khác
Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư trong xây dựng kết cấu
hạ tầng; đề xuất cơ chế khuyến khích, thu hút đầu tư ngoài ngân sách,
huy động các nguồn lực để xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông; tổ chức khai thác tốt kết cấu hạ tầng giao thông hiện có; cân
đối, bố trí các nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn ngân sách, vốn ODA cho các
dự án nhằm tăng cường khả năng kết nối giữa các phương thức vận tải, ưu
tiên tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình có tính
quan trọng, cấp bách.
Bộ
Giao thông vận tải đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý,
khai thác vận tải: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
điều hành, khai thác vận tải, liên kết các phương thức vận tải, quản lý
vận tải đa phương thức, dịch vụ logistics; phát triển sàn giao dịch vận
tải, sàn giao dịch logistics.
Đường bộ:
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tiếp tục sử dụng hiệu quả các nguồn vốn,
từng bước xã hội hóa để đầu tư hình thành mạng đường bộ cao tốc quốc
gia, đường chuyên dùng bảo đảm kết nối hiệu quả các khu công nghiệp,
trung tâm kinh tế trọng điểm, cửa khẩu chính, đầu mối giao thông quan
trọng với các cảng biển, cảng thủy nội địa, ga đường sắt.
Tăng cường quản lý hiệu quả các dự án, tập trung đầu tư xây dựng đường
cao tốc Bắc - Nam; xây dựng kế hoạch, lộ trình để đẩy nhanh việc áp dụng
thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức tự động không dừng, qua
đó tạo sự công khai, minh bạch trong thu phí; tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin, phát triển, kết nối các sàn giao dịch vận tải hành
khách, hàng hóa; nghiên cứu thúc đẩy hoạt động của sàn giao dịch vận tải
hàng hóa hạn chế xe chạy rỗng, đồng thời nghiên cứu hình thành sàn giao
dịch chung cho các phương thức vận tải để làm cơ sở phát triển dịch vụ
logistics.
Đường sắt:
Triển khai dự án nâng cấp, hiện đại hóa đường sắt Bắc - Nam; nâng cao
năng lực, chất lượng vận tải đường sắt và cải tạo nâng cấp, đồng bộ các
tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội -
Lạng Sơn, Hà Nội - Hạ Long; nghiên cứu phương án, lộ trình xây dựng
tuyến đường sắt nối với cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng; nghiên cứu, phát
triển, hình thành kết nối đường sắt với các khu công nghiệp, cảng biển,
cảng cạn.
Đồng thời xây dựng các ga đầu mối hàng hóa, nâng cấp trang thiết bị xếp
dỡ hiện đại cho các ga đầu mối vận chuyển hàng hóa như Yên Viên, Đông
Anh, Sóng Thần… theo khả năng cân đối vốn, đồng thời mời gọi các nhà đầu
tư cùng hợp tác đầu tư nâng cấp kho, bãi hàng đủ tiêu chuẩn để cung cấp
dịch vụ dùng chung cho tất cả các doanh nghiệp vận tải hàng hóa và
khách hàng.
Đường thuỷ nội địa:
Từng bước đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội
địa, tiến tới giải quyết dứt điểm các điểm nghẽn trên các hành lang vận
tải thủy chính (Quảng Ninh - Hải Phòng - Hà Nội, Hải Phòng - Ninh Bình,
Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, vận tải thủy kết nối Cam-pu-chia) như:
nâng cấp tĩnh không cầu Đuống, cầu Măng Thít, cầu Nàng Hai; nâng cao
chất lượng và kết nối đồng bộ đường thủy nội địa khu vực Đồng bằng Sông
Cửu Long; đồng thời kết nối với cảng biển và các khu vực bên ngoài.
Ưu
tiên phát triển vận tải sông pha biển, ven biển để tận dụng tối đa các
cửa sông ra biển nhằm giảm tải cho đường bộ trên trục Bắc - Nam, góp
phần giảm chi phí, nâng cao sản lượng vận tải; nghiên cứu, xây dựng cơ
chế khuyến khích tư nhân đầu tư vào xây dựng, vận hành, khai thác và bảo
trì kết cấu hạ tầng đường thuỷ nội địa, đầu tư đóng mới, hoán cải
phương tiện thuỷ nội địa chuyên dụng (phương tiện chở công-ten-nơ,
phương tiện chở xăng dầu và các mặt hàng chuyên dụng khác, phương tiện
sông pha biển)...
Hàng hải: Phát
triển dịch vụ vận tải biển đồng bộ với hệ thống cảng biển, tập trung
khai thác hiệu quả các tuyến vận tải biển nội địa nhằm giảm tải cho
đường bộ, góp phần giảm chi phí, nâng cao sản lượng vận tải. Phát huy
tối đa lợi thế về vị trí của các cảng biển, đặc biệt là cảng cửa ngõ
quốc tế để thu hút các tàu trọng tải lớn vận chuyển hàng hóa xuất nhập
khẩu đi các tuyến vận tải biển xa; tăng cường hợp tác với các cơ quan
quản lý cảng biển, hãng tàu biển nước ngoài để thu hút nguồn hàng thông
qua Cảng biển Việt Nam.
Nghiên cứu, hình thành phát triển các kết nối cảng biển, hệ thống dịch
vụ hỗ trợ sau cảng biển với đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa như:
Nghiên cứu đầu tư khu bến cảng Liên Chiểu, Đà Nẵng phù hợp với nhu cầu
vận tải và khả năng về nguồn vốn; Thực hiện các giải pháp thu hút, phân
luồng hàng hóa để khai thác có hiệu quả khu bến cảng Cái Mép - Thị Vải;
nghiên cứu triển khai dự án đầu tư luồng Cái Mép - Thị Vải để các tàu
trọng tải đến 160.000 tấn hành hải 24/24h vào khu bến cảng Cái Mép - Thị
Vải (đặc biệt là đoạn luồng từ phao số “0” đến bến cảng CMIT); đẩy
nhanh tiến độ hoàn thành dự án đầu tư xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải
Phòng (Lạch Huyện) - Giai đoạn khởi động.
Hàng không:
Sớm hoàn thành, trình Chính phủ và Quốc hội phê duyệt Báo cáo nghiên
cứu khả thi Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành; chuẩn bị dự án mở
rộng Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; xây dựng, phát triển các trung
tâm logistics hàng không gắn liền với các cảng hàng không quốc
tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng; đầu tư mở rộng Cảng hàng không
quốc tế Tân Sơn Nhất, phối hợp với Thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu xây
dựng cơ sở hạ tầng và tổ chức giao thông nhằm giảm thiểu tình trạng ùn
tắc giao thông quanh khu vực sân bay...
Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng logistics
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp với các bộ,
ngành liên quan (đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính…) hoàn
thiện chính sách đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng logistics.
Tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử,
kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển hiện
nay trên thế giới và khu vực. Thông qua các hoạt động nhằm nâng cao năng
lực doanh nghiệp, khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp trong một số
ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình
sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động
logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong
logistics.
Bộ
Kế hoạch và Đầu tư tập trung kêu gọi đầu tư xây dựng các trung tâm
logistics loại I, đóng vai trò kết nối Việt Nam với quốc tế; khuyến
khích một số khu công nghiệp, khu chế xuất xây dựng hình mẫu khu công
nghiệp dựa trên nền tảng logistics; hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp dịch vụ logistics; xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê và thu
thập dữ liệu thống kê về logistics; ban hành mã số đăng ký kinh doanh
theo nhóm ngành cho dịch vụ logistics...
Bộ
Tài chính nghiên cứu xây dựng chính sách thuế, phí, giá dịch vụ để tạo
điều kiện cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương dành quỹ đất thích hợp để xây dựng trung tâm phân phối hàng hóa,
dịch vụ hậu cảng, cảng cạn, kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông
quốc gia để từng bước tạo thành mạng lưới kết cấu hạ tầng logistics hiện
đại.
Căn cứ định hướng phát triển và thực tế điều kiện tại địa phương, chủ
động phối hợp với các bộ, ngành tổ chức kêu gọi đầu tư xây dựng, hoàn
chỉnh hệ thống logistics trên địa bàn.
Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, Hiệp hội Chủ hàng Việt
Nam, các Hiệp hội ngành hàng liên quan căn cứ quy định của pháp luật,
chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền và chức năng, nhiệm vụ để định hướng
thay đổi hành vi trong thương mại quốc tế, gắn kết giữa doanh nghiệp chủ
hàng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, thay đổi điều kiện
giao hàng "mua CIF, bán FOB", nâng cao ý thức của doanh nghiệp chủ hàng,
tạo cơ sở cho doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam tham gia vào
nhiều công đoạn trong chuỗi cung ứng với hàm lượng giá trị gia tăng ngày
càng cao./.
Minh Hiền
(Nguồn: chinhphu.vn)